Hội phụ nữ đầu tiên thực sự bảo vệ phụ nữ-Huỳnh Thục Vy

HN Canh bac NQ

Hiến pháp của đảng hay của dân?(RFA)-Quốc hội đã tự kết tội trước dân tộc(BVN)-Bày tỏ chính kiến là thể hiện nhân quyền(BBC)

-Một thanh niên đang sử dụng laptop trong một quán cà phê nhỏ ở Hà Nội hôm 28/11/2013

AFP photo

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH : Sự tiếc nuối vô bờ bến /Huỳnh Long An/Theo blog HLA 

GS Võ Tòng Xuân: Ai tiếp tay cho giống lúa Trung Quốc tràn vào Việt Nam

GS Võ Tòng Xuân nói thẳng: “[…] nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân, khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa Việt Nam.”

***

Hà Nội và canh bạc nhân quyền

Phạm Chí Dũng gửi RFA từ Việt Nam
2013-12-03

Khúc dạo đầu. . .

Người Pháp chầm chậm rời khỏi quán cà phê nhỏ trên đường Đại Cồ Việt. Nền trời Hà Nội xâm xẩm mây mù đầu đông. Mắt ông ngỡ ngàng. Ngay trên vỉa hè lớp nhớp trước mặt ông, một viên cảnh sát trật tự cấp hàm đại úy đang hùng hổ vung tay chỉ đạo cấp dưới quẳng bàn ghế của quán cà phê lên chiếc xe thùng nhỏ – vốn được dành riêng cho thể loại “sinh hoạt đường phố” này. Những bóng người mờ nhạt loăng quăng trong tiếng quát tháo chói tai như càn khoét vào làn sương cô tịch của Hà thành.

Màn sương trước khi diễn ra đại hội đảng lần thứ 12 vào năm 2016.

Quầng sáng cuối cùng của mặt trời cũng vừa tắt hẳn. Gương mặt viên bí thư thứ nhất về chính trị của tòa đại sứ Pháp đầy vẻ u ám. Ngán ngẩm và khinh bỉ, giọng Jean Philippe Gavois trầm đặc buồn bã hướng đến chúng tôi: “Các bạn không cần phải nói cho tôi về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam nữa. Tôi đã nhìn thấy tất cả”.

Trước đó ít phút trong một quán cà phê khác, ông đã vô tình lặp lại một cử chỉ đặc trưng cho nền văn hóa đối lập đương đại ở Hà Nội: chụp ảnh những nhân viên an ninh trước một vòng rào máy quay phim chĩa vào ông từ những người không mặc sắc phục.

Một trong hai người chúng tôi là Nguyễn Văn Đài – một luật sư được chính quyền khoác cho bộ trang phục “tuyên truyền chống nhà nước” và đã phải thụ án tù vì tội danh cao quý đó, đã không còn được ông chủ quán cà phê quen thuộc nồng hậu đón tiếp, sau lời cảnh cáo đanh thép sẽ “đóng cửa quán” từ những người đại diện cho pháp luật Việt Nam.

Thêm ít phút nữa, bà chủ của quán cà phê thứ hai mà chúng tôi đặt chân vào ôm ngực hổn hển nói với Đài “Các anh mà không ra thì họ đến đóng cửa quán của tôi mất”. Tròng mắt bà ngân ngấn một vẻ đồng cảm xót xa. Hình như một cơn đau tim ngôn luận đang quấn siết ngực bà.

Thưa các ông nhân quyền, Hà nội chúng tôi đây!

Câu chuyện mặt đối mặt đậm sắc thái bất hòa ấy xảy ra vào ngày 28/11/2013, chỉ nửa tháng sau khi giới cầm quyền Hà Nội lần đầu tiên được lọt qua cánh cửa của Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc.

Jean Philippe Gavois đã có được một kỷ niệm không hiếm hoi: trước và sau tuyên thệ “Luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người”, bản cương lĩnh đảng – vừa giành được tỷ lệ phiếu thuận ngất ngưởng đến 98% thông qua hiến pháp mới nơi nghị trường quốc hội – đã ngay lập tức quay lưng với bài học đáng quên trong lịch sử phong kiến về quyền tự do cá nhân của dân chúng.

Một ngày sau kỷ niệm không đáng nhớ trên, tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Thanh Giang tại nhà ông. Cũng như luật sư Nguyễn Văn Đài, vị tiến sĩ địa vật lý này được Công an Hà Nội đặc tả như một nhân vật chống đối và áp dụng chế độ cách ly đặc biệt, cho dù những gì tôi biết về ông là tư chất ôn hòa, tuổi già và những kiến nghị đau đáu cuối đời.

Vào lần này, kỷ niệm đầu đông Hà Nội thật nồng cháy. Ngôi nhà cô tịch của Nguyễn Thanh Giang nằm trong một ngõ nhỏ đã bị đội ngũ dày đặc nhân viên an ninh che kín từ hồi nào. Ngay cả lời mời tha thiết của chủ nhà cũng không làm cho hàng rào cách ly lay động. Không vào nhà cùng tham dự cuộc thăm hỏi theo lời đáp từ của nhà văn Nguyễn Thanh Giang, những viên chức an ninh lạnh lùng còn lập tức xô đẩy các vị khách của ông ra khỏi cửa.

Dĩ nhiên tôi cũng nằm trong số khách bất hạnh đó.

Hà Nội những ngày lập đông như đóng băng trong dòng người lặng cúi trên phố. Không may mắn như viên bí thư của Đại sứ quán Pháp, tôi chẳng có cơ hội nào diện kiến người mà tôi muốn học hỏi những kiến thức cao niên.

Thay vào đó, một thể tài kiến thức rất chuyên biệt đang chờ tôi.

Bởi trong khi những vị khách khác chỉ bị “mời” về, một chiếc xe hơi đã trờ tới cạnh tôi. Tôi hiểu, mình đã bị “đón lõng”.

Đồn công an Trung Mỗ thuộc huyện Từ Liêm cách nhà ông Nguyễn Thanh Giang khoảng một cây số, nằm trong một khu vực nhà cao tầng đang thi công, gạch vữa bặm trợn cùng những khuôn mặt cũng chẳng thiện cảm hơn. Trong đồn, một kế hoạch đã được sắp đặt từ hồi nào để tiếp đón tôi.

Ngồi trên xe và áp tải tôi là Trung, một cán bộ của A67 – Cục bảo vệ chính trị 7 thuộc Bộ Công an. Tuổi trung niên, Trung khá điển trai và có lẽ không thiếu tham vọng. Trung hứa hẹn sẽ chỉ “trao đổi” với tôi khoảng một tiếng đồng hồ.

Nhưng buổi lấy cung đã kéo dài gấp sáu lần so với hứa hẹn ban đầu – một tỷ lệ khiến tôi liên tưởng đến hố phân hóa không tưởng về nợ xấu ngân hàng trong báo cáo của cùng hai cơ quan nhà nước là Ủy ban giám sát tài chính quốc gia – từ 35-37%, và từ Ngân hàng nhà nước – gần 6%.

Tỷ lệ 1/6 cũng là một đặc trưng hiếm có của thể chế độc trị ở Việt Nam: cứ 6 người dân lại có một người trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lực lượng công an.

Có lẽ cũng vì nguyên do bội cung như thế mà buổi hỏi cung tôi tập hợp đến hơn một chục nhân viên an ninh. Cùng với A67, cơ quan chủ trì lấy cung là Phòng PA24 – Cơ quan an ninh điều tra của  Công an Hà Nội, chứ không phải PA83 về chính trị nội bộ hay một bộ phận an ninh nào khác. Hai phiên hiệu A67 và PA24 lại chính là cơ chế phối hợp để bắt khẩn cấp và khởi tố tôi về tội danh “Âm mưu lật đổ chính quyền” vào tháng 7/2012.

A67 cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời tôi. Thủ trưởng cơ quan đặc biệt này là Hoàng Phước Thuận. Trước chiến dịch bắt giam tôi vào năm ngoái, Hoàng Phước Thuận đóng lon đại tá. Sau đó, ông được thăng hàm thiếu tướng.

Tôi không bị bắt, các ông thấy đấy. . .

Không nhiều thời gian để người dân kiếm sống, nhưng lại quá dư dả thời giờ cho công an quản lý họ.

Một hồ sơ chi tiết về tôi đã được Công an Hà Nội xác lập. Lý lịch cá nhân. Gần 200 bài viết và trả lời phỏng vấn trên các báo quốc tế VOA, BBC, RFA, RFI, ABC… và báo chí hải ngoại. Và tất nhiên cả mục đích chuyến đi Hà Nội cùng các cuộc gặp gỡ vào tháng 11/2013 của tôi với nhiều “đối tượng” như các ông bà Nguyễn Trọng Vĩnh, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân…

Toàn bộ các vấn đề đều được nhân viên an ninh hỏi và ghi chép một cách chu đáo, hoàn toàn không khác với những gì mà tôi đã trải nghiệm trong trại tạm giam B34 ở Sài Gòn. Tất cả đều có thể làm cho bạn hình dung ra một cuộc bắt giữ không chính thức.

Không chính thức vì đơn giản là không có bất cứ một giấy tờ nào liên quan đến thủ tục giữ người mà phải được PA24 thông báo cho tôi – âu cũng là một hiện tượng ngoài lề phổ biến trong hoạt động “bảo vệ an ninh quốc gia” ở Việt Nam.

Không ngạc nhiên và hoàn toàn bình tâm, tôi thỏa mãn cơ bản các câu hỏi của giới điều tra, bất chấp tính chất ngoài lề của họ. Kể cả việc tôi sẵn lòng chịu đựng nếu họ bắt giam tôi thêm một lần nữa.

Điều an ủi duy nhất cho tôi là gương mặt đôn hậu, trung thực và biểu cảm có văn hóa của người hỏi cung chính – một cán bộ thuộc Cơ quan an ninh điều tra Hà Nội. Đức khoảng trên ba chục tuổi, thông minh và mẫn cảm. Nếu không phải vì những cuộc hỏi cung đầy tính sách nhiễu và giáo điều như thế này, những nhân viên an ninh như Đức sẽ không quá xa cách với những người như tôi trong quán cà phê.

Đa số nhân viên an ninh bao quanh tôi cũng trẻ như Đức. Không đề cập đến những bất đồng sắc cạnh xung quanh điều 4 hiến pháp, tôi nhận ra vẻ ưu tư đầy đặn trong mắt họ, trong thần sắc của họ khi tôi nói về nạn tham nhũng kinh hoàng, các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, các bất công kinh tế cùng bất ổn xã hội đang lên đến tột đỉnh. Đó cũng là những nội dung trong các bài viết đăng công khai của tôi.

Ít nhất, tôi không nhận ra thái độ hoàn toàn vô cảm của họ – những người làm công ăn lương như tôi. Tối thiểu, tôi nhận ra họ khác với nhũng quan chức bệ vệ, giả dối và “ăn của dân không chừa thứ gì” như bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan từng thốt lên. Và tuy vẫn giữ im lặng, cơ mặt họ đã không tránh khỏi vài co giật bức xúc.

Diễn dịch theo người xưa, trong cái rủi lại có cái may. Không phải tất cả những người có học vây quanh tôi đều thiếu văn hóa đến mức có thể sẵn sàng thượng cẳng chân hạ cẳng tay với dân oan đất đai hoặc giới hoạt động nhân quyền. Lần đầu tiên từ khi rời trại giam, tôi được cọ xát với giới chức an ninh Hà Nội.

Cũng theo cái cách mà họ hài hước là muốn “giao lưu” với tôi.

Sau 16 năm, tôi vẫn không thể hiểu

Văn hóa là sự khởi đầu và cũng là điểm kết thúc của loài người. Tôi đã nghe một người bạn kể lại chuyện anh bị công an đọc lệnh bắt, và ngay sau đó anh quay lưng lại, cùng lúc vỗ vào… mông.

Nhưng cũng ngay sau cái vỗ mông như một tác phẩm chưa từng có trong hồ sơ văn chương thế giới, tờ lệnh bắt anh đã được cho vào ngăn kéo. Người ta quẳng đồ lại cho anh rồi đẩy anh ra ngoài đường.

Thật kinh khủng! Thật khó hình dung nổi vì sao có những người dân Hà Nội lại chọn cách thức trình diễn như thế để đối sánh với ngành công an.

Không thật tán đồng về cách hành xử của người bạn đó, trong tôi vẫn chằn chặn dấu hỏi: vì cái gì và do ai mà khuynh hướng đối đầu giữa dân chúng và công an ngày càng khẩn trương?

Cũng khẩn cấp đến mức bất đồng về ý thức hệ đã cùng lúc hóa thân vào những xung đột cá nhân?

Bầu không khí Thủ đô đang đậm đặc tia kích nổ. Ở khắp nơi, người ta công khai nói về những nhược điểm và sai lầm quá lớn của chế độ và cá nhân lãnh đạo. Ở nhiều nơi, những đám đông tự phát có thể hiện ra, bùng phát bất cứ lúc nào vì những lý do nhỏ nhặt, và càng ghê gớm nếu lý do liên quan mật thiết đến nhân viên công lực. Dù rằng vẻ nín lặng đến mức kinh ngạc của người Hà Nội vẫn làm cho nhà cầm quyền chưa bỏ được thói quen hoang tưởng về quyền năng của mình, song cái âm ỉ trong dân chúng lại giống với hình ảnh một thùng thuốc súng.

Sẽ ra sao nếu vào một ngày nào đó, con sóng biểu tình sôi trào sẽ khiến không thể cứu vãn mối dây lỏng lẻo còn lại giữa lực lượng an ninh với rất nhiều người dân bị thiệt thòi quyền lợi? Sẽ có bao nhiêu nhân viên an ninh giữ được sự đồng cảm với chính những người đã sinh ra họ hoặc là đồng bào của họ? Hoặc ở một thái cực quá trái ngược, họ sẽ nổ súng vào đoàn biểu tình như quang cảnh đẫm máu đã loang tràn ở Romania dưới thời cai trị độc tài của Ceaucescu?

Công tác an ninh, xét cho cùng, là tư chất và hành động nhân văn. Từ trái tim đến trái tim chứ không thể là cái gì khác. Nhân tâm phải là trái tim để các mạch máu của chế độ và dân chúng chung hòa một mối. Nhân tâm cũng là cứu cánh duy nhất trong thế cùng tắc biến cho một chính thể không còn đủ lý do để tồn tại… Trong 16 năm là cán bộ nghiên cứu về chính sách an ninh, tôi đã rút ra kết luận quý giá này. Giá trị của kết luận đó còn cao cả hơn rất nhiều lần sự tồn tại của một nền chính trị.

Thế nhưng vì sao những người được xem là “bạn của dân” lại đang bị không ít dân chúng coi là “côn đồ”?

Hà Nội làm sao vậy? Trong tận cùng trái tim của Thủ đô, đất trời Hà Nội đang chao đảo bởi một nền văn hóa cướp hoa, nền văn hóa giành giật bánh sushi và bây giờ đang nhanh chóng tiến đến nền văn hóa đấm đá nhân quyền.

Trong tận cùng của nhân quyền lại là quyền lợi sinh tồn của những dân oan đất đai – một đòi hỏi chính đáng và chính danh đến mức không thể bị bất kỳ quan chức xảo ngôn nào đánh tráo khái niệm. Nhưng nhiều năm qua, nhiều nhân viên an ninh đã rơi vào cái vòng xoáy tráo trở ấy, trở thành một thứ công cụ đặc thù và diệu nghiệm để các nhóm lợi ích bất động sản trục lợi. “An ninh quốc gia” được trưng ra như một thứ bùa được trả lương. Còn nếu cuộc đối đầu với dân oan rơi vào thảm cảnh và đổ máu như vụ cưỡng chế gia đình Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, sẽ chỉ có lực lượng công an và người dân bị thí chốt. Trong khi đó, những bóng ma nhóm lợi ích và quan chức nhúng chàm đều biến mất…

Nhưng sau tất cả những suy tưởng mông lung, tôi lại tự cật vấn mình rằng nếu tôi bị công an và dân phòng Hà Nội đánh bầm dập như họ đã hành xử đối với Phương Uyên, Lê Quốc Quyết và một số blogger vào tháng 9/2013, hay với Lê Thị Công Nhân và Trương Dũng vào tháng 11/2013, liệu tôi có giữ được bình tâm để suy nghiệm về cái chân thiện mỹ trong con người cán bộ an ninh thời nay?

Cuộc bắt giữ và câu lưu tôi đã thành công. Tôi không còn thời gian để gặp nhà văn Nguyễn Thanh Giang. Tôi cũng chẳng thể đến nhà thờ Thái Hà để thăm linh mục Nguyễn Nam Phong. Chỉ còn vừa đủ thời gian ra sân bay Nội Bài để về Sài Gòn theo vé khứ hồi đã đặt.

Ngược lại, giới chức an ninh Hà Nội đã có dịp “giao lưu” khá đầy đủ với tôi về những chủ đề thật nhạy cảm như quan điểm của tôi về Diễn đàn xã hội dân sự, những tổ chức “chống đối” như Dân Làm Báo, Việt Tân… Ngay cả những bài viết của tôi đã đăng trên báo chí quốc tế cũng được họ cẩn thận đề nghị tôi lưu bút về “quyền tác giả” – một động tác không thừa nếu sau này họ muốn bắt lại tôi.

Cuối cùng, sau khi đáp lại gợi ý của cán bộ A67 về “ở chơi Hà Nội đến ngày mai” bằng lời chân thành nhất “tôi đã sẵn sàng nếu bị bắt”, tôi được thông báo về một bản cảnh cáo viết tay, không đóng dấu, liên quan đến việc tôi tiếp xúc với các “đối tượng” Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân. Tất nhiên, tôi không ngần ngại bút ký vào biên bản ấy nội dung “Tôi không vi phạm pháp luật”.

Chỉ có lời tự vấn về phẩm chất và văn hóa an ninh của tôi vẫn còn ở phía trước.

Và những gì còn lại

Nhưng ngay trước cái phía trước ấy lại là một kết quả gây ra sự ồn ào vào ngày 29/11/2013 mà những người chỉ đạo chiến dịch “phân hóa” có lẽ đã không lường hết: vào cuối ngày, báo chí  quốc tế và giới truyền thông xã hội đồng loạt đưa tin và bình luận về vụ việc cách ly ông Nguyễn Thanh Giang, tất nhiên không quên trường hợp bị cản trở hôm trước của luật sư Nguyễn Văn Đài. Một người quen ở nước ngoài còn cho tôi biết đã có sự lên tiếng trong giới nghị sĩ quốc hội Australia về câu chuyện đặc biệt này – đặc biệt như một dẫn chứng hùng hồn cho 14 lời cam kết của Nhà nước Việt Nam trước Chủ tịch đại hôi đồng Liên hiệp quốc, và như một minh họa không thể sinh động hơn cho điều được xem là “thành tâm chính trị” của Nhà nước Việt Nam ngay sau khi được chấp thuận vào Hội đồng nhân quyền.

Những người bạn của tôi trong giới truyền thông quốc tế còn nêu lên những câu hỏi không thể lẩn tránh: Ai đã chỉ đạo “chiến dịch” sách nhiễu luật sư Nguyễn Văn Đài, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và bắt câu lưu nhà báo Phạm Chí Dũng? Phải chăng là Bộ Chính trị? Hoặc nếu không phải từ những cấp lãnh đạo tối cao thì lẽ nào các cơ quan cấp dưới đã tự tung vận hành cái thói quen trấn áp và đàn áp của thời phong kiến như thế?

Giới truyền thông cũng bình phẩm về một đặc trưng không thể đặc biệt hơn trong nền chính trị đương đại Việt Nam: ngành công an chính là những chuyên gia tạo event giỏi nhất. Ai và cái gì đã tạo nên khả năng và kỹ năng tuyệt vời gây sự kiện, hơn nữa lại là sự kiện quốc tế, như thế?

Chỉ có điều, mọi lý giải cho những câu hỏi trên có thể đều không còn cần thiết nữa. Trong con mắt giới nhân quyền và các nhà nước dân chủ quốc tế, Nhà nước Việt Nam vừa ghi thêm một điểm xấu về thành tích “bảo đảm quyền con người”.

Nếu không vì sứ mệnh ngoại giao bắt buộc, hẳn những người như viên bí thư Jean Philippe Gavois đã lập tức xách vali rời khỏi đất nước quá giả dối chính trị cộng thêm sự ghẻ lạnh tình người này.

Phạm Chí Dũng, nhà văn.

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/thsu-120313-phamchidung-12032013104215.html

Hội phụ nữ đầu tiên thực sự bảo vệ phụ nữ

Huỳnh Thục Vy -Sài Gòn ngày 3 tháng 12 năm 2013

Ngày 25 tháng 11 hằng năm được chính thức công nhận là “Ngày quốc tế loại bỏ bạo lực đối với phụ nữ” từ ngày 17 tháng 12 năm 1999 theo Nghị quyết số 54/134 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc.

Ngày 25 tháng 11 vừa qua, để kỷ niệm Ngày quốc tế này, Tổng thứ ký Liên Hiệp quốc Ban Ki-moon đã “hoan nghênh nỗ lực đồng loạt kêu gọi chấm dứt việc sử dụng bạo lực theo ước tính nhắm vào một phần ba số phụ nữ trên thế giới”, “cổ vũ các nhà lãnh đạo nỗ lực ban hành và áp dụng luật pháp cũng như góp phần thay đổi não trạng”…

Và khoảng thời gian ngắn ngủi từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 (Ngày quốc tế Nhân quyền) hằng năm được mệnh danh là “16 ngày hành động” chống lại việc sử dụng bạo lực đối với phụ nữ. Quả thật là một sự sắp xếp thích đáng khi kết nối  Ngày quốc tế xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ và Ngày quốc tế Nhân quyền bằng 16 ngày dành riêng cho phụ nữ này.

Thực vậy, cũng trong ý nghĩa đó, cuộc vận động cho quyền lợi của phụ nữ khắp thế giới không thể tách rời khỏi nỗ lực vận động bảo vệ Nhân quyền phổ quát. Quyền của nữ giới sẽ không bao giờ được tôn trọng và đảm bảo trong một xã hội mà Nhân quyền nói chung bị chà đạp. Vì thế, cuộc vận động cho Nhân quyền của phụ nữ Việt Nam là một mảng vô cùng quan trọng, gắn bó mật thiết với mọi nỗ lực vận động cả quốc nội và hải ngoại cho Nhân quyền ở Việt Nam.

Trong bối cảnh đầy ý nghĩa đó, ngày 25 tháng 11 năm 2013 vừa qua, tổ chức xã hội dân sự có tên Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam chính thức được thành lập, không ngoài mục tiêu bảo vệ tất cả phụ nữ Việt Nam- những người là nạn nhân của những vụ vi phạm Nhân quyền đang ngày một trở nên nghiêm trọng hơn tại xứ sở này.

Mặc dù, đã đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò thứ yếu trong những đổi chác mang tính chính trị của ngoại giao quốc tế, Nhân quyền vẫn là giá trị phổ quát có khả năng gắn kết mọi cá nhân trên khắp thế giới bất chấp sự khác biệt về giới tính, chủng tộc, quốc gia, thể chế chính trị… Dó đó, ngày hôm nay, cuộc vận động cho Nhân quyền, đặc biệt là quyền của phụ nữ ở Việt Nam trở nên đặc biệt chính đáng và đầy uy tín quốc tế.

Như chúng ta đã biết, với sự tồn tại và hoạt động trên danh nghĩa và chỉ nhằm phục vụ quyền lợi của Đảng cộng sản Việt Nam, Hội Liên Hiệp phụ nữ Việt Nam chưa và sẽ không bao giờ thực sự mang giá trị tự thân đáng tự hào của một hội đoàn dân sự. Và việc hình thành những tổ chức dân sự thay thế vai trò của Hội này, nhằm gánh vác sứ mệnh bảo vệ quyền lợi của phụ nữ Việt Nam là một vấn đề mang tính lịch sử, cấp thiết và không thể tránh khỏi.  Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam là một tổ chức dân sự đầu tiên như thế.

Chúng ta có thể điểm lại vài nét trong bức tranh vi phạm Nhân quyền và chà đạp nhân phẩm phụ nữ rộng lớn của chính quyền Việt Nam. Công an cưỡng chế thu hồi đất lôi kéo những phụ nữ dân oan trần truồng giữ đất như súc vật;  quản giáo ngược các nhà nữ bất đồng chính kiến trong tù; dân phòng, an ninh thường phục đánh đập những nhà hoạt động nữ trong các cuộc biểu tình ôn hoà hay dã ngoại Nhân quyền; công an phường làm nhục người nữ đối kháng trong đồn công an phường… Đó là những sự kiện làm tổn thương lương tâm nhân loại và thực sự bất xứng đối với vị trí của một chính quyền là thành viên của Liên Hiệp quốc và có những cam kết quốc tế về bảo vệ Nhân quyền.

Sự ra đời của Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam vừa trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp quốc bất chấp thực trạng Nhân quyền tồi tệ ở quốc gia này, là một phép thử kiểm tra thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam đối với các tiếng nói đòi tự do nhân quyền sau sự kiện này. Thứ hai, đây cũng là cơ hội cho nhà cầm quyền để điều chỉnh cách xử sự của họ, không phải vì thành tâm mà vì vận mệnh của chính họ.

Mặc dù vậy, chúng ta không bao giờ nên chủ quan đối với một nhà cầm quyền có bề dày về những kinh nghiệm giả trá và lừa bịp cả với người dân Việt Nam lẫn công luận quốc tế. Bản lĩnh, sự khôn ngoan và tình yêu dành cho nhau của những người phụ nữ Việt Nam sẽ giúp chúng ta cùng nhau vượt qua những khó khăn phía trước, nhưng chúng ta không thể hoạt động hiệu quả mà không có sự ủng hộ quốc tế.

Như chúng ta đã biết, Uỷ ban Nhân quyền của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn thất bại trong cố gắng trung thành và theo đuổi mục tiêu mà nó đề ra ban đầu. Năm 2003, sự kiện Lybia dưới chế độ độc tài Gaddafi được bầu làm chủ tịch Uỷ ban này là một sự sỉ nhục không chỉ đối với Uỷ ban Nhân quyền mà còn là tai tiếng đối với cả cái thiết chế quốc tế Liên Hợp quốc.

Nếu Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc hôm nay không muốn đi vào lịch sử như một sự thất bại tiếp theo, Hội đồng này phải thay đổi triệt để. Bất cứ sự nhượng bộ nào của Hội đồng này đối với các chế độ độc tài sẽ biến nó trở thành sân chơi của những thế lực cơ hội chính trị tầm quốc tế và  giá trị Nhân quyền cao quý sẽ bị chà đạp ở chính nơi nhận nhiệm vụ quan sát và bảo vệ nó.

Với nhu cầu đó, Hoa Kỳ và các quốc gia tự do phải lãnh đạo Hội đồng Nhân quyền và thay đổi thực trạng này. Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về Quyền lực mềm, mà Quyền lực mềm ấy còn là gì nếu không có các giá trị Tự do, Dân chủ, Nhân quyền? Thời gian phía trước chính là cơ hội cho chính phủ các quốc gia tự do nói chung và Hoa Kỳ nói riêng thể hiện thái độ của mình một cách rõ ràng.

Trở lại vấn đề của chúng ta, với tôn chỉ hoạt động độc lập và chỉ liên quan đến lĩnh vực Nhân quyền, trong tình hình chính sự quốc nội đầy thù địch với những nhà hoạt động bảo vệ Nhân quyền, Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam nhận thức rõ những thách thức mà tổ chức dân sự này phải đối mặt. Dù một mặt chủ động xây dựng nội lực, Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam vẫn liên lạc chặt chẽ và kêu gọi chính phủ các quốc gia tự do hãy hành động có trách nhiệm sau khi đã bầu cho Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền.

Đặc biệt chúng ta sẽ chờ xem các động thái của Hoa Kỳ với tư cách là người đàn anh của thế giới tự do; vì chỉ mới đây, vào chính ngày thành lập Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã tuyên bố:” Ngày này là thời điểm để chúng ta tái khẳng định quyết tâm biến lời nói thành hành động, và chúng ta cam kết góp phần giúp thế giới thoát khỏi những hành xử tàn bạo đã tước đoạt cuộc sống bình đẳng và nhân phẩm từ những người đồng hương của chúng ta (phụ nữ)”.

© VNWHR | PNNQVN

http://vnwhr.net/2013/12/03/hoi-phu-nu-dau-tien-thuc-su-bao-ve-phu-nu/

http://diendanxahoidansu.wordpress.com/2013/12/04/hoi-phu-nu-dau-tien-thuc-su-bao-ve-phu-nu/

GS Võ Tòng Xuân: Ai tiếp tay cho giống lúa Trung Quốc tràn vào Việt Nam

GS Võ Tòng Xuân nói thẳng: “[…] nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân, khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa Việt Nam.” Như thế đủ để Bộ Công An vào cuộc để đưa “nhiều quan chức” này ra ánh sáng chưa, thưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng? Hay chuyện tiếp tay phá hoại nông nghiệp Việt Nam tuy khó chịu nhưng chỉ là như “ngứa ghẻ”, buộc “hệ thống chính trị” phải động tay, không đáng? Hay là đằng sau nhóm lợi ích này còn có nhóm lợi ích khác to hơn, huy động công an, không tiện? Hay là chuyện này “nhạy cảm” vì động đến ông bạn 4 tốt, 16 chữ vàng, không dám?

Bauxite Việt Nam

(Thị trường) – Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu lại nhập chủ yếu từ Trung Quốc. Đề án phát triển sản phẩm quốc gia cho mặt hàng gạo đã được thông qua nhưng theo GS Võ Tòng Xuân, chuyên gia về Nông nghiệp, đề án này không có tính khả thi.

 GS Võ Tòng Xuân
GS Võ Tòng Xuân

PV: – Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng đầu vào như giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu lại nhập khẩu 50-70% từ Trung Quốc. Xin ông cho biết nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là gì?

GS Võ Tòng Xuân: – Nông dân hiện vẫn tự do sản xuất, không có người chỉ đạo, muốn cấy giống gì thì cấy, bón phân loại nào thì bón.

Thấy sản phẩm được thương lái mua nhiều, họ sẽ ồ ạt trồng theo kiểu của họ. Bón phân cũng sai, mật độ trồng sai dẫn đến nhiều sâu bệnh, sau đó phải mua thuốc để phun.

Nguyên nhân sâu xa do nhà nước đã bỏ mặc, không quan tâm tới người nông dân, dù có khuyến nông nhưng nông dân lại không mặn mà, tin tưởng vì chưa đủ trình độ để quản lý, tham gia tư vấn.

Giống lúa Việt Nam do các viện làm ra nhưng quảng cáo không mạnh bằng những công ty nhập giống của Trung Quốc. Ngoài ra, giống lúa Trung Quốc cũng nhận được sự hỗ trợ của chính quyền, khuyến khích dân mua giống lúa đó.

PV:- Dù chất lượng gạo của lúa lai Trung Quốc không cao, độ dinh dưỡng không bằng giống lai hoặc lúa thuần của VN sản xuất tuy nhiên năng suất lại cao hơn nhiều và phù hợp với từng trà đất, từng mùa vụ. 

Tại sao Việt Nam lại không tự sản xuất lúa giống để phục vụ thị trường trong nước và tự cung cấp giống cho nông dân sản xuất, thưa ông?

GS Võ Tòng Xuân: – ĐH Nông nghiệp Hà Nội và những viện, trung tâm làm được nhưng năng suất hạt giống của mình không thể địch nổi với giống Trung Quốc.

Một lý do quan trọng hơn là nhiều quan chức lại đứng đằng sau lưng những công ty nhập khẩu lúa giống Trung Quốc để kiếm lợi ích cá nhân, khuyến cáo nông dân nên trồng lúa Trung Quốc không nên trồng giống lúa Việt Nam.

 Phụ thuộc đầu vào từ TQ, chuỗi giá trị như giống, kỹ thuật, chế biến, tiêu thụ còn lỏng lẻo là những rào cản khiến VN khó sản xuất lúa chất lượng cao để xuất khẩu.
Phụ thuộc đầu vào từ TQ, chuỗi giá trị như giống, kỹ thuật, chế biến, tiêu thụ còn lỏng lẻo là những rào cản khiến VN khó sản xuất lúa chất lượng cao để xuất khẩu.

PV: – Mới đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thông qua đề án phát triển sản phẩm quốc gia cho mặt hàng gạo. Mục tiêu là chọn ra 5- 7 giống lúa thơm, ngắn ngày, có chất lượng cao, hướng đến xuất khẩu với giá 600- 800 USD/tấn để có thể cạnh tranh với gạo chất lượng cao của Thái Lan vào năm 2020. Xin ông cho biết, đề án liệu có khả thi không?

GS Võ Tòng Xuân: – Theo tôi, tính khả thi của đề án hầu như không có vì không có sự tổ chức đồng bộ. Việc phát triển ngành lúa gạo còn rời rạc từng ban ngành, mạnh ai người ấy lo trong khi người nông dân cần nguyên một chuỗi giá trị nhưng giống, kỹ thuật, chế biến, tiêu thụ với mức giá tốt.

Dưới danh nghĩa tái cơ cấu tỉnh nào cũng nói mình trồng giống lúa chất lượng cao nhưng không biết ai mua và người nông dân cứ trồng theo họ.

Ngoài ra, sức cạnh tranh từ 2 thị trường Thái Lan, Ấn Độ cũng rất lớn vì họ cùng sản xuất lúa gạo trong mùa khô. Giá gạo xuất khẩu của Thái Lan hiện 800 USD/tấn trong khi của mình là gần 1.000 USD/tấn.

Nếu cứ để nông dân tự phát thì không đời nào chấm dứt tình trạng này, không thể có sản phẩm độc đáo trên thị trường.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Hương My

Nguồnbaodatviet.vn

http://www.boxitvn.net/bai/21666