Thẻ

, , ,

Khảo sát biên giới Việt-Trung bằng Google Maps và Google EarthPhan Văn Song, Phạm Quang Tuấn, Dương Danh HuyHSVNCH

Đừng ‘xui dại’ Việt Nam-Tiến sĩ Trần Công Trục/Theo BBC —  Tàu Trung Quốc xâm phạm, không “thích phạt” chỉ “thích phóng” (Chép sử Việt).–Hoa Đông, biển Đông: hoà hay chiến? (RFA)

Vì sao cần bàn về tính quốc gia của VNCH và tính chất pháp lý của việc thống nhất đất nước-Dương Danh Huy và Phạm Thanh Vân

Quỹ Nghiên cứu Biển Đông

Có chủ quyền, vẫn có thể bị mất

Dù cho một nước đã có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ, nếu sau đó nước này bỏ ngỏ cho nước khác tranh chấp, lại còn không duy trì chủ quyền của mình trong khi nước thứ nhì có động thái để xác lập chủ quyền, thì nước thứ nhất có thể bị mất chủ quyền.

Có thể thấy điều này rất rõ trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008[1].

Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Tòa  còn cho rằng công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có tính chất pháp lý cơ bản[2], cũng như không có tính ràng buộc đối với Johor[3]. Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền, và Tòa đã dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore[4].

Bài học cho chúng ta là mặc dù cho tới 1954 Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, vẫn có tiềm năng là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng (CH PVĐ) đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho yêu sách của Trung Quốc, và nếu Việt Nam đã không khẳng định chủ quyền trước yêu sách đó thì Việt Nam vẫn có thể bị mất chủ quyền.

Vì vậy, chúng ta phải nghiên cứu và phân tích thấu đáo về vấn đề duy trì chủ quyền sau 1954.

Những yếu tố còn hạn chế tranh luận, nghiên cứu

Thế nhưng đây lại là một thiếu sót lớn trong truyền thông Việt Nam. Truyền thông Việt Nam đăng tải nhiều về chứng cứ chủ quyền của Việt Nam thời quân chủ, nhưng ít đăng phân tích sâu về việc duy trì chủ quyền sau 1954. Như vậy giống như xem phim tập đầu mà không xem tập cuối: sẽ không thể biết kết quả ra sao. Tệ hơn, nó có thể làm cho chúng ta chủ quan.

Không khó hiểu lý do cho sự thiếu sót trên.

Nếu phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975, sẽ không tránh được sự thật là trong giai đoạn đó VNDCCH đã tiêu cực đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Mặc dù trên diện pháp lý có thể biện luận rằng VNDCCH không có nghĩa vụ hay quyền hạn gì đối với Hoàng Sa, Trường Sa, khó có thể cho rằng VNDCCH không có nghĩa vụ luân lý gì trong việc giúp dân tộc Việt bảo vệ chủ quyền đối với hai quần đảo đó cho đến ngày nào đó đất nước thống nhất. Có người có thể sợ rằng điều này sẽ làm mất đi phần nào hào quang của VNDCCH. Dù sao đi nữa, chúng ta cần lưu ý rằng VNDCCH không phải là CHXHCNVN, và nếu VNDCCH có đã tiêu cực về Hoàng Sa, Trường Sa thì điều đó là độc lập với CHXHCNVN có tiêu cực hay không.

Phân tích về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975 còn có những hệ quả lô gíc có thể bị cho là trái lề chính trị. Thí dụ, khi TT Nguyễn Tấn Dũng viện dẫn sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì lô gíc dẫn đến những câu hỏi sau.

1.    Chính quyền VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên trường quốc tế không?

2.    Để có thẩm quyền trên, chính quyền VNCH phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế. Vậy khi chính quyền VNCH còn tồn tại, chính thể đó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?

3.  Nếu không thì thế nào mà sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa có giá trị trong luật quốc tế?

4.   Nếu sự khẳng định chủ quyền của chính quyền VNCH đối với Hoàng Sa, Trường Sa không có giá trị pháp lý thì từ 1954 đến 30/4/1975 có đại diện pháp lý nào của quốc gia Việt nào đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo này không?

Có thể có người sợ rằng việc đặt vấn đề “có phải đã từng có hai quốc gia” cũng như “có phải chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia” sẽ dẫn đến  một số câu hỏi. Thậm chí còn có thể có những chuyện chụp mũ kiểu “Anh nói là có 2 quốc gia, anh nói chính quyền VNCH đã từng là đại  diện pháp lý, vậy là anh muốn khôi phục VNCH, vậy là anh là phản động, vậy là anh muốn chia đôi đất nước lần nữa”. Nhưng đó chỉ là một sự chụp mũ. Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia, nếu cho rằng trước 30/4/1975 chính quyền VNCH đã từng là đại diện pháp lý của một quốc gia thì đó chỉ là một nhận định về quá khứ, không có nghĩa muốn chia đôi đất nước đã thống nhất năm 1976, và không có nghĩa muốn khôi phục VNCH hay CHMNVN.

Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng câu hỏi thứ nhì là trong phạm trù luật quốc tế, không phải là một câu hỏi về các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính thể VNCH, VNDCCH.

Khái niệm “quốc gia” ở đây là một thuật ngữ pháp lý, tiếng Anh là State, tiếng Pháp là État, được định nghĩa trong Công ước Montevideo 1933 là một chủ thể có lãnh thổ, dân cư, chính phủ và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác[5]. Nó phải được quán chiếu trong phạm trù luật quốc tế. Khái niệm “quốc gia” trên phương diện pháp lý khác với khái niệm đất nước và tổ quốc, thậm chí khác với cách hiểu bình dân về từ “quốc gia”.

“Quốc gia” khác với “đất nước” hay “nước”, vốn là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư, và cũng khác với “tổ quốc”, vốn là một khái niệm dựa trên lịch sử.

“Quốc gia” cũng khác với “nhà nước”. Nhà nước là tổ chức chính trị để đại diện, lãnh đạo và cai quản quốc gia, chứ không phải là quốc gia. Một nhà nước cộng hòa thường có ba hệ thống: lập pháp (thí dụ như quốc hội), hành pháp (chính phủ) và tư pháp (hệ thống tòa án)[6].

“Quốc gia” cũng khác với “chính phủ”: chính phủ là cơ quan hành pháp của nhà nước. Khi CP VNDCCH không công nhận rằng CP VNCH là đại diện hợp pháp phía nam vĩ tuyến 17 thì điều đó không có nghĩa là CP VNDCCH không công nhận rằng có một quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. Hơn nữa, theo Công ước Montevideo 1933, sự hiện hữu của một quốc gia không dựa vào sự công nhận của các quốc gia khác[7].

Tương tự, “đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế” là một vấn đề trong phạm trù luật quốc tế độc lập với các vấn đề chính trị, chính nghĩa của các chính quyền VNCH, chính quyền VNDCCH và chính quyền CHMNVN.

Chúng ta nên giữ câu hỏi thứ nhì trong phạm trù luật quốc tế của nó, và tuyệt đối không nên chụp mũ, để có một môi trường tốt hơn cho việc thảo luận và nghiên cứu về về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa trong giai đoạn 1954-1975.

Trên thực tế, quan điểm chính thức của VNDCCH và CHMNCH là trước khi VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành CHXHCNVN  trong quá trình từ 25/4/1976 đến 2/7/1976 thì  hai chính thể đó là hai quốc gia[8].

Ngày 30/4/1975 CPCMLT CHMNVN tuyên bố

“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt-nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt-Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt-nam.”[9]

Với một tuyên bố về lãnh thổ, dân cư và quan hệ quốc tế như vậy, rõ ràng là CPCMLT CHMNVN khẳng định rằng miền Nam là một quốc gia như được định nghĩa trong Công Ước Montevideo, và VNDCCH cũng đã không phản đối sự khẳng định đó.

Nhưng nếu từ 30/4/1975 đến 2/7/1976 có hai quốc gia thì dĩ nhiên là đã có hai quốc gia từ trước 30/4/1975, vì sẽ hoàn toàn vô lý nếu cho rằng trước 30/4/1975 chỉ có một quốc gia nhưng sau 30/4/1975 thì thành hai quốc gia. Không lẽ ngày 30/4/1975 lại là ngày đất nước chia đôi từ một quốc gia thành hai quốc gia? Vì vậy, quan điểm cho rằng trước 1976 và 1975 có hai quốc gia không có gì là phản động hay đáng ngạc nhiên – nó là quan điểm chính thức của VNDCCH, CHMNVN và CHXHCNVN mà ngày nay bị nhiều người lãng quên, và có người vì lãng quên cho nên tiêu cực về nó.

Ngoài khó khăn chính trị liên quan đến câu hỏi thứ nhì, còn có khía cạnh con người. Những cựu chiến binh VNDCCH của cuộc chiến 1954-1975 và gia đình của những người đã hy sinh trong cuộc chiến đó sẽ nghĩ gì về câu hỏi “Khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó có phải là đại diện của một quốc gia trong luật quốc tế không?”, và nếu trả lời cho câu hỏi đó là “Có” thì họ sẽ nghĩ gì?

Nhưng nếu chúng ta cho rằng khi chính quyền VNCH còn tồn tại, nó không phải là đại diện cho một quốc gia nào trong luật quốc tế, thì làm sao có thể khẳng định rằng sự khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của chính quyền đó là có giá trị pháp lý?

Chúng ta có thể đánh giá lịch sử, cụ thể là đánh giá VNDCCH, một cách khoa học, khách quan và tự do hay chưa? Chúng ta có thể nhìn nhận rằng VNDCCH có thể đã làm những điều đúng, những điều sai, những điều phù hợp với luật quốc tế, những điều không phù hợp, hay không? Ở đây cần nhấn mạnh rằng nhìn nhận đó không phủ nhận giá trị của việc thống nhất đất nước. Hay là chúng ta vẫn phải một bên thì bảo vệ hình ảnh thần tượng hóa của VNDCCH, và bên kia thì quỷ sứ hóa chính thể đó?

Một kịch bản trước Tòa

Để minh họa tại sao lại phải phân tích về giai đoạn sau 1954, tại sao cần phải nghiên cứu về có phải VNCH và VNDCCH đã từng là hai quốc gia không, tại sao cần phải nghiên cứu về tính pháp lý của việc thống nhất đất nước, chúng tôi sẽ trình bày kịch bản giả định sau:

●    Việt Nam và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa.

●    Tòa bác bỏ những chứng cứ hoang đường, mơ hồ trong cổ sử của Trung Quốc.

●    Tòa công nhận rằng các hành động chủ quyền của Việt Nam trong thời quân chủ đã làm cho chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.

●    Tòa cho rằng Pháp đã duy trì chủ quyền Việt Nam, và cho tới 1954 thì Hoàng Sa vẫn là của Việt Nam.

●    Trung Quốc vin vào CH PVĐ và các hành vi của VNDCCH để tiếp tục tranh cãi về giai đoạn từ năm 1954 trở đi. Trong luật quốc tế, có ba nguyên tắc có thể làm cho Việt Nam mất chủ quyền: recognition (công nhận chủ quyền của nước khác), estoppel (bị ngăn cản không được dùng dẫn chứng cho chủ quyền của mình) và acquiescence (từ bỏ chủ quyền của mình)[10], và Trung Quốc vận dụng những nguyên tắc này.

1. Trung Quốc: Việt Nam đã công nhận chủ quyền Trung Quốc (recognition). Dẫn chứng là CH PVĐ, các phát ngôn và tài liệu của VNDCCH.

2. Việt Nam: Các dẫn chứng đó không có giá trị pháp lý như một sự công nhận (recognition).

[Trên thực tế, báo Nhân Dân, các NXB sách vở, bản đồ, v.v., và ông Ung Văn Khiêm đều không có thẩm quyền để đại diện cho quốc gia về lãnh thổ. Trong những tác giả của các dẫn chứng mà Trung Quốc dùng, theo luật quốc tế thì chỉ có ông Phạm Văn Đồng là có thẩm quyền, nhưng theo luật quốc tế thì CH PVĐ không phải là sự công nhận. GS luật quốc tế Monique Chemiller-Gendreau cũng cho rằng CH PVĐ không phải là sự công nhận[11].]

3. Trung Quốc: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn của VNDCCH có tính ràng buộc pháp lý và cũng đã tạo ra một estoppel ngăn cản không cho Việt Nam đòi Hoàng Sa.

4. Việt Nam: CH PVĐ và các tài liệu/phát ngôn đó không có tíng ràng buộc pháp lý, và cũng không hội tụ được nhiều điều kiện của estoppel, eg, CH PVĐ không nói cụ thể về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc đã không dựa trên CH PVĐ để có hành động có thiệt hại cho mình (detrimental reliance).

[Theo luật quốc tế, có khi tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc cho bên tuyên bố, có tuyên bố đơn phương không có tính ràng buộc[12], có khi gây ra estoppel, có khi không. Chúng tôi cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện để có tính ràng buộc hay gây ra estoppel cho Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa[13].

Thí dụ như trong phiên Tòa xử tranh chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge, Tòa án Công lý Quốc tế đã không công nhận rằng công hàm của Johor nói Johor không đòi chủ quyền đối với đảo Pedra Branca có tính ràng buộc, cũng như không công nhận quan điểm của Singapore cho rằng công hàm đó đã gây ra estoppel.

TS Từ Đặng Minh Thu cũng có phân tích cho rằng CH PVĐ không hội tụ đủ các điều kiện của Estoppel[14].]

5. Trung Quốc: Đó là từ bỏ chủ quyền (acquiescence). Dẫn chứng là Việt Nam đã im lặng, và tới giữa thập niên 70 mới lên tiếng. Bất kể ban đầu Việt Nam có chủ quyền hay không, trong khi chúng tôi đòi chủ quyền và chiếm giữ mà Việt Nam im lặng bấy lâu thì sau đó Việt Nam cũng không có.

[Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, mặc dù Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền khi Singapore có những động thái nhằm xác lập chủ quyền trong giai đoạn sau này.

Sự im lặng của Thái Lan đối với các động thái ngoại giao của Campuchia nhằm khẳng định chủ quyền đối với đền Preah Vihear trong một thời gian dài cũng là yếu tố để Tòa quyết định rằng chủ quyền của đền thuộc về Campuchia[15].

Việt Nam không chối cãi được rằng VNDCCH đã không hề khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. CPCMLT CHMNVN thì năm 1969 mới ra đời, và cũng không khẳng định chủ quyền một cách cụ thể, trong khi Trung Quốc đã liên tục có các động thái để khẳng định yêu sách chủ quyền hai quần đảo, ví dụ như chiếm đóng một phần quần đảo Hoàng Sa năm 1956, đưa ra tuyên bố lãnh hải 1958. Khi Trung Quốc chiếm hết quần đảo Hoàng Sa năm 1974 thì CPCMLT CHMNVN cũng chỉ tuyên bố chung chung rằng các nước láng giềng thường có tranh chấp lãnh thổ, và các nước liên quan cần giả quyết một cách bình đẳng, hữu nghị, v.v., bằng thương lượng.

Khó phản biện luận điểm này của Trung Quốc (vận dụng nguyên tắc acquiescence) hơn luận điểm 1 (vận dụng nguyên tắc recognition) và 3 (vận dụng nguyên tắc estoppel).

Việt Nam không có cách nào khác ngoài viện dẫn các lời khẳng định chủ quyền và hành động chủ quyền của VNCH, và đó là điều mà Việt Nam đã làm.]

6. Việt Nam: Việt Nam có đòi chủ quyền. Dẫn chứng là (1) Trước 1956 thì CP Việt Nam Quốc Gia đòi chủ quyền, (2) Từ 1956 đến 1975 thì CP VNCH đòi.

[Trung Quốc sẽ phản biện như sau.]

7. Trung Quốc: Trong luật quốc tế thì việc khẳng định chủ quyền chỉ có giá trị pháp lý nếu việc đó là từ đại diện pháp lý của một quốc gia. Chính quyền Sài Gòn là một ngụy quyền, không phải là đại diện pháp lý của 1 quốc gia.

[VN làm gì đây? Bên “A” thì nói “Thấy chưa? CP VNCH là đại diện pháp lý của VN, chính quyền Hà Nội là bất hợp pháp, là hay nhất”? Bên “B” thì nói “Đồ phản động! CP VNDCCH mới là đại diện pháp lý của Việt Nam”?]

9. Trung Quốc: Mỉm cười nụ cười “thiên triều”.

[Đó là lý do tại sao cần vận dụng quan điểm của một số nhà luật học nổi tiếng nhất thế giới: trước 1976 đất nước Việt Nam là 2 quốc gia[16]. Trong quyển “The creation of States in international law”, luật sư luật quốc tế James Crawford viết như sau.

Trang 474:

what in fact occurred in the period after 1954 is clear – the provisional demarcation line between the two zones became a boundary between two States, north and south Vietnam.

Trang 475:

Each entity was a unit for the purposes of the use of force, self-determination, foreign and internal affairs; and another name for such as unit is a State.

Trang 476:

“But the subsequent establishment of two separate zones in Vietnam must be taken to mark the establishment of two separate States, neither of which, in law or in fact, ever extended over the whole territories of Vietnam.”

Với quan điểm đó, có thể hiểu rằng CP VNDCCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía bắc, CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam cho đến 1975, trong thời gian 1975-1976 thì CPCMLT CHMNVN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam.

Ở đây chúng ta cần lưu ý rằng “đại diện pháp lý của quốc gia” là một vấn đề luật quốc tế, một vấn đề giữa các quốc gia, nó không nói gì về chính nghĩa trong tranh chấp chính trị giữa người Việt với nhau.

Nếu cho rằng trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia, Việt Nam có thể nói như sau.]

10. Việt Nam: Theo luật quốc tế thì từ 1956 đến 1975 thì có 2 quốc gia, và CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17.

[Trên thực tế, trước 30/4/1975 phần lớn các nước trên thế giới công nhận CP VNCH là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam. Trong một số bài viết khác, chúng tôi đã phân tích về khi VNCH còn tồn tại thì chính thể đó có phải là một quốc gia hay không, và quan điểm của chúng tôi là “Có”[17]. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thường thì lập luận nào cũng có rủi ro trước Tòa.

Khúc mắc hiện nay là khúc mắc có tính lịch sử và chính trị. Hệ quả lô gíc của quan điểm “trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia” là khi quân đội của VNDCCH chiến đấu ở phía nam vĩ tuyến 17 trước khi CP VNCH sụp đổ thì đó là can thiệp quân sự vào xung đột nội bộ (tức là xung đột giữa CP VNCH và MTGPMN/CPLT CHMNCN trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17) của một quốc gia khác (mặc dù cả hai quốc gia đó đều là những phần của tổ quốc Việt Nam), tức là đã làm một điều không phù hợp với luật quốc tế. Chắc chắn là có người khó có thể chấp nhận rằng sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17 là không phù hợp với luật quốc tế, và do đó họ khó có thể chấp nhận quan điểm “trước 1976 và 1975 có 2 quốc gia”.

Nhưng nếu có ai không chấp nhận (có thể là trên phương diện chính trị hay phương diện pháp lý) quan điểm “đã từng hiện hữu 2 quốc gia” thì hãy thử đặt vấn đề ngược lại như sau.

Nếu từ 1956 đến 1975, CP VNCH không phải là đại diện pháp lý của một quốc gia, để cho những tuyên bố và hành động của CP đó về Hoàng Sa có giá trị pháp lý, thì trong thời gian đó có đại diện pháp lý của quốc gia nào đã khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa? Nếu từ 1956 đến 1975 đại diện pháp lý của toàn bộ Việt Nam không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, còn chính thể khẳng định thì lại là ngụy, không phải là đại diện pháp lý cho một quốc gia, do đó việc khẳng định không có giá trị pháp lý, thì Tòa sẽ kết luận thế nào?

Có vẻ như ở đây có hai điều trên bàn cân: một bên là lập luận dựa trên luật quốc tế để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm về chính trị và lịch sử lo ngại rằng nếu công nhận rằng VNDCCH và VNCH đã từng là hai quốc gia thì sẽ là một sự công nhận nào đó về “bên kia”, và có thể cả lo ngại rằng sự công nhận đó sẽ đặt nghi vấn về sự tham chiến của VNDCCH phía nam vĩ tuyến 17.]

11. Trung Quốc: Nếu VNDCCH và VNCH là 2 quốc gia thì VNDCCH đã thôn tính lãnh thổ của một quốc gia khác (VNCH) bằng bạo lực, do đó không thể thừa kế chủ quyền lãnh thổ từ quốc gia đó, bao gồm cả chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa, Trường Sa.

[Vấn đề ở đây là nếu cho rằng CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền pháp lý với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.

Phản biện của Việt Nam sẽ dựa trên sự hiện hữu của CPCMLTCHMNVN. Dựa trên hình thức trên, Việt Nam có thể phản biện như sau.]

12. Việt Nam: CHXHCNVN được thành lập từ 2 quốc gia, VNDCCH và CHMNVN, thống nhất lại với nhau một cách hợp pháp ngày 2/7/1976. Chính Trung Quốc đã công nhận CPLT CHMNCN là đại diện pháp lý của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17, và Trung Quốc đã công nhận sự thành lập của CHXHCNVN. Vì vậy, Trung Quốc không thể cho rằng CHXHCNVN là VNDCCH thôn tính VNCH một cách bất hợp pháp. Như vậy, CHXHCNVN đã thừa kế từ VNCH.

[Theo hình thức pháp lý thì:

  1. Trước 30/4/1975 có hai quốc gia: VNDCCH và VNCH.
  2. Cuộc xung đột trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17 là giữa CP VNCH và CPCMLT CHMNVN.
  3. Ngày 30/4 CPCMLT CHMNVN lật đổ CP VNCH, lên cầm quyền, đổi tên quốc gia thành CHMNVN.
  4. CHMNVN không phải là một quốc gia mới, mà là quốc gia có từ trước 30/4/1975, nhưng với một tên mới. Vì chỉ là một việc đổi tên và đổi chế độ của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên vùng lãnh thổ nào là đã thuộc chủ quyền VNCH mặc nhiên vẫn là của CHMNVN[18]. Tức là nếu trên diện pháp lý trước 30/4/1975 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền VNCH, thì sau 30/4/1975 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHMNVN.
  5. Sau 30/4/1975, vẫn có hai quốc gia: VNDCCH và CHMNVN.
  6. Từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất lại thành một, CHXHCNVN, và sự thống nhất đó không bị nước nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc, phản đối là xâm lăng bằng bạo lực. Với định nghĩa của quốc gia là lãnh thổ, dân cư và nhà nước, định nghĩa của sự thống nhất quốc gia tất nhiên là thống nhất lãnh thổ, dân cư và nhà nước của một số quốc gia thành một. Khi hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN thống nhất thành một, CHXHCNVN, thì dĩ nhiên là chủ quyền lãnh thổ của CHXHCNVN bao gồm chủ quyền lãnh thổ của  VNDCCH và CHMNVN trước thống nhất. Như vậy, nếu trên diện pháp lý trước 2/7/1976 Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền CHMNVN, thì sau 2/7/1976 hai quần đảo này sẽ mặc nhiên thuộc chủ quyền CHXHCNVN. Trừ khi CHXHCNVN tuyên bố rằng mình đã không thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, không có lý do hợp lý để cho rằng khi CHXHCNVN được thành lập năm 1976 trên diện pháp lý chủ quyền của quốc gia đó đã không bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa.

(Có thể có quan điểm sai lầm rằng từ 1976 cho đến nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Tệ hơn nữa, có thể cho rằng ngày nay cần làm thủ tục thì mới thừa kế. Quan điểm này là sai lầm vì những lý do sau:

  1. Như đã trình bày trên, ngày 30/4/1975, khi CP VNCH bị sụp đổ và CPCMLT CHMNVN lên thay thế thì đó chỉ là một sự thay đổi chế độ và thay đổi tên của một quốc gia. Do đó, lãnh thổ của VNCH mặc nhiên là lãnh thổ của CHMNVN. Kế tiếp, như đã trình bày trên, năm 1976 hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã làm thủ tục để thống nhất thành một quốc gia, CHXHCNVN, và thống nhất quốc gia tất nhiên bao gồm cả thống nhất lãnh thổ. Do đó, thủ tục để CHXHCNVN thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa từ CHMNVN (quốc gia trước đó có tên “VNCH”) chính là thủ tục thống nhất mà CHMNVN và VNDCCH đã làm từ 25/4/1976 đến 2/7/1976.
  2. Thứ nhì, trên thực tế, không có nước nào trên thế giới cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền lãnh thổ của VNCH, cho nên không có lý do hợp lý để người Việt lại cho rằng CHXHCNVN đã không thừa kế.
  3. Thứ ba, sau khi CHXHCNVN ra đời thì hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN/VNCH không còn tồn tại nữa. Nếu khi đó CHXHCNVN đã không thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì chủ quyền đó đã rơi vào tay một trong những nước đã đòi chủ quyền từ trước. Nếu từ 1976 cho tới nay CHXHCNVN vẫn chưa thừa kế thì dù bây giờ có làm thủ tục gì đi nữa, có tuyên bố gì đi nữa, cũng sẽ không còn gì để thừa kế, vì chủ quyền đó đã rơi vào tay nước khác rồi. Bất cứ thủ tục, tuyên bố nào ngày nay cũng chỉ có thể xác nhận một sự thừa kế đã diễn ra năm 1976, không thể nào thay đổi từ “chưa thừa kế” thành “thừa kế”.
  4. Nếu ngày nào trong tương lai Việt Nam làm gì đó gọi là “làm thủ tục” để thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì Trung Quốc sẽ dùng hành động vớ vẩn đó để nói rằng chính Việt Nam đã công nhận rằng từ 1976 cho đến ngày đó đã chưa thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì Việt Nam sẽ khó có thể cãi rằng trong khoảng thời gian đó chủ quyền chưa rơi vào tay nước khác.)

Tuy nhiên, luận điểm 12 này cũng không phải không có rủi ro trước Tòa. Trên thực tế, những sư đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam (quân đội của CPCMLT CHMNVN) là những sư đoàn Quân đội Nhân dân của VNDCH. Chiến dịch Hồ Chí Minh được chỉ đạo bởi VNDCCH. Các lữ đoàn xe tăng tiến vào dinh Độc lập này 30/4/75 treo cờ CHMNVN, nhưng là các đơn vị của VNDCCH. Nếu ra Tòa, vấn đề đó có sẽ có ảnh hưởng gì đến tính pháp lý của việc thống nhất và kế thừa không?

Ngoài khía cạnh pháp lý trên, có điều trớ trêu là trong khi Điểm 10 có khúc mắc chính trị-lịch sử cho những người khó chấp nhận rằng khi VNCH còn tồn tại thì nó đã từng là một quốc gia, thì điểm 12 lại có khúc mắc chính trị-lịch sử cho một số người có chính kiến khác với nhóm thứ nhất. Nhóm thứ nhì này khó chấp nhận quan điểm cho rằng hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã thống nhất một cách tự nguyện và pháp lý thành CHXHCNVN. Họ cho rằng sự thống nhất đó là VNDCCH xâm lược VNCH, và CPCMLTCHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH.

Nhưng nếu cho rằng VNDCCH đã xâm lược VNCH, và cho rằng CPCMLT CHMNVN chỉ là bù nhìn của VNDCCH, thì làm sao để lập luận cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa năm 1976? Nếu cho rằng CHXHCNVN chưa thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa thì như phân tích án lệ ở trên, rất có thể Tòa sẽ cho rằng Việt Nam đã mất chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1976 vào tay Trung Quốc hoặc Philippines, là những quốc gia đã liên tục có yêu sách chủ quyền từ trước 1975.

Dường như Hoàng Sa, Trường Sa lại bị đặt lên bàn cân: một một bên là lập luận pháp lý để bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bên kia là quan điểm chính trị và lịch sử của những người cho rằng sự thống nhất của Việt Nam lại thành một quốc gia, CHXHCNVN, là không hợp pháp.]

Một số lập luận khác

Trong trường hợp không chứng minh được là đã từng có hai quốc gia, có lẽ Việt Nam có hai lập luận khác.

Thứ nhất, nếu kể ra cho đầy đủ thì Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1956-1975 CP VNCH là chính phủ pháp lý của quốc gia Việt duy nhất. Trên thực tế, Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận quan điểm đó, chưa nói tới Tòa có sẽ chấp nhận hay không. Vì thế, quan điểm này có vẻ có ít tính thực tế.

Thứ nhì, Việt Nam có thể tìm cách biện luận rằng trong giai đoạn 1954-1975 chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong tình trạng đóng băng, và không thể thay đổi. Thí dụ, Việt Nam có thể cố gắng dùng một số trong những lập luận sau.

1.   Cả chính quyền Hà Nội và chính quyền Sài Gòn đều không có đủ thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền lãnh thổ. Nhưng có vẻ như có ít cơ sở pháp lý cho lập luận này.

2.   Mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý. Nhưng không biết trong luật quốc tế có nguyên tắc nào có nghĩa “mỗi bên không có thẩm quyền để thay đổi gì về chủ quyền của những vùng lãnh thổ bên kia quản lý” nếu hai bên đó không phải là hai quốc gia?

3.   Cuộc chiến khốc liệt đã tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt đòi hỏi chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, phải được đóng băng để bảo đảm sự công bằng. Trên thực tế, nguyên tắc utis possidetis có được áp dụng trong chiến tranh, khi nước này chiếm đóng lãnh thổ của nước kia trong cuộc chiến, và cũng được áp dụng cho quá trình giành độc lập của các nước thuộc địa. Nhưng không rõ có thể áp dụng nguyên tắc đó cuộc chiến 1954-1975 không?

Tuy nhiên, chúng tôi chưa nghiên cứu đủ để tìm thấy cơ sở pháp lý của những lập luận trên và thật sự đánh giá chúng.

Lời kết

Trên đây chúng tôi đưa ra một kịch bản giả tưởng có thể xảy ra tại Tòa. Nhưng cho dù Tòa chưa thể phân xử tranh chấp, những nguyên tắc trong kịch bản này vẫn áp dụng cho hiện tại. Lý do là trong hiện tại, trong cuộc tranh biện về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông trên trường quốc tế, Trung Quốc đã luôn viện dẫn CH PVĐ để chứng minh Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[19]. Một số học giả quốc tế cũng coi đây là điểm yếu trong yêu sách chủ quyền của Việt Nam[20]. Bởi vậy, tuy là một kịch bản tại Tòa, và vẫn còn chưa biết tới ngày nào Trung Quốc sẽ đồng ý ra Tòa, nhưng ngay từ lúc này Việt Nam cần phải nghiên cứu, mổ xẻ vấn đề này để có thể chuẩn bị lý lẽ cho cuộc tranh biện trên truyền thông và trong giới học giả. Việt Nam coi trận hải chiến Hoàng Sa là hành động dùng vũ lực của Trung Quốc để cưỡng chiếm Hoàng Sa, nhưng Trung Quốc có thể nói rằng đây là cuộc chiến chính đáng để thu hồi đất bị chiếm. Cũng có hai quan điểm đối kháng tương tự cho Trường Sa. Dư luận thế giới sẽ tin bên nào, có ủng hộ Việt Nam hay ngó lơ cho Trung Quốc, có lẽ phụ thuộc rất nhiều vào lập luận pháp lý của mỗi bên và phụ thuộc vào sự tích cực của Việt Nam trong việc tranh thủ dư luận quốc tế.

Thế nhưng, vẫn còn những khúc mắc trong các quan điểm khác nhau về chính trị và lịch sử, vẫn còn những vết thương chưa lành từ cuộc chiến, thậm chí có thể có cả những sự chụp mũ, và những điều này vẫn còn gây ra những hạn chế cho môi trường phân tích pháp lý. Hai bàn cân được đề cập đến trong Điểm 10 và 12 trong kịch bản có, hay có sẽ, nghiêng về ưu tiên cho Hoàng Sa và Trường Sa hay không?

D.D.H. & P.T.V.

Các tác giả gửi trực tiếp cho BVN


[1] Sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks and South Ledge (Malaysia/Singapore), Judgment, I.C.J. Reports 2008:http://www.icj-cij.org/docket/files/130/14492.pdf

[2] Xem tr. 73, đ. 227:

[2]Regarding the first submission, the Court does not consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense that it had a conclusive legal effect on Johor. Rather it is a response to an enquiry seeking information. It will be seen that, in the circumstances, this submission is closely related to the third.

[3] Xem tr. 73, đ. 228:

[3]Regarding the second submission, the Court points out that a party relying on an estoppel must show, among other things, that it has taken distinct acts in reliance on the other party’s statement (North Sea Continental Shelf, Judgment, I.C.J. Reports 1969, p. 26, para. 30). The Court observes that Singapore did not point to any such acts. To the contrary, it acknowledges in its Reply that, after receiving the letter, it had no reason to change its behaviour; the actions after 1953 to which it refers were a continuation and development of the actions it had taken over the previous century. While some of the conduct in the 1970s, which the Court next reviews, has a different character, Singapore does not contend that those actions were taken in reliance on the Johor response given in its letter of 1953. The Court accordingly need not consider whether other requirements of estoppel are met.

[3]Xem tr. 82, đ. 229:

[3]Finally, on the third submission about the Johor reply amounting to a binding unilateral undertaking, the Court recalls that when it is claimed that “States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for” (Nuclear Tests (Australia v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 267, para. 44; Nuclear Tests (New Zealand v. France), Judgment, I.C.J. Reports 1974, p. 473, para. 47). The Court also observes that the statement was not made in response to a claim made by Singapore or in the context of a dispute between them, as was the case in the authorities on which Singapore relies. To return to the discussion of the first submission, Johor was simply asked for information. Its denial of ownership was made in that context. That denial cannot be interpreted as a binding undertaking.

[4] Xem tr. 96, đ. 275:

[4]Further, the Johor authorities and their successors took no action at all on Pedra Branca/Pulau Batu Puteh from June 1850 for the whole of the following century or more. And, when official visits (in the 1970s for instance) đwere made, they were subject to express Singapore permission. Malaysia’s official maps of the 1960s and 1970s also indicate an appreciation by it that Singapore had sovereignty. Those maps, like the conduct of both Parties which the Court has briefly recalled, are fully consistent with the final matter the Court recalls. It is the clearly stated position of the Acting Secretary of the State of Johor in 1953 that Johor did not claim ownership of Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. That statement has major significance.

[4]Xem tr. 96, đ. 276:

[4]The Court is of the opinion that the relevant facts, including the conduct of the Parties, previously reviewed and summarized in the two preceding paragraphs, reflect a convergent evolution of the positions of the Parties regarding title to Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. The Court concludes, especially by reference to the conduct of Singapore and its predecessors à titre de souverain, taken together with the conduct of Malaysia and its predecessors including their failure to respond to the conduct of Singapore and its predecessors, that by 1980 sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh had passed to Singapore.

[5] Công ước Montevideo 1933 về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia: http://www.cfr.org/sovereignty/montevideo-convention-rights-duties-states/p15897

[5]ARTICLE 1

[5]The state as a person of international law should possess the following qualifications: a ) a permanent population; b ) a defined territory; c ) government; and d) capacity to enter into relations with the other states.

[5]

[6]  Có “State” và “État” được thành “Nhà nước”, nhưng dịch như thế là không chính xác. Thí dụ như UNCLOS đề cập đến “coastal State” và “user State”, nếu dịch thành “quốc gia ven biển” và “quốc gia sử dụng biển” thì sẽ chính xác hơn dịch thành “Nhà nước ven biển” và “Nhà nước sử dụng biển”.

[7] Công ước Montevideo, Điều 3:

[7]The political existence of the state is independent of recognition by the other states. Even before recognition the state has the right to defend its integrity and independence, to provide for its conservation and prosperity, and consequently to organize itself as it sees fit, to legislate upon its interests, administer its services, and to define the jurisdiction and competence of its courts.

[7]The exercise of these rights has no other limitation than the exercise of the rights of other states according to international law.

[7]

[8] Thí dụ như “Báo cáo của ông Trường Chinh, Trưởng Đoàn đại biểu miền Bắc tại Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc, ngày 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_4.htm, ghi

[8]Về mặt Nhà nước, Việt Nam là một nước, nhưng về danh nghĩa vẫn chia làm hai Nhà nước: miền Bắc có Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, miền Nam có Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Miền Bắc có Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; miền Nam có Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

[8]Quan điểm của CHMNVN cũng là VNDCCH và CHMNVN vẫn còn là hai Nhà nước khác biệt. Thí dụ như “DIỄN VĂN CỦA ÔNG PHẠM HÙNG, TRƯỞNG ĐOÀN ĐẠI BIỂU MIỀN NAM TẠI HỘI NGHỊ HIỆP THƯƠNG CHÍNH TRỊ THỐNG NHẤT TỔ QUỐC, NGÀY 15-11-1975”, http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHtoantapIV/Vankienkhac/vkk_5.htm, ghi

[8]Vừa qua, ở miền Nam đã họp Hội nghị liên tịch mở rộng giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng, Trung ương Liên minh Các lực lượng Dân tộc dân chủ và hòa bình, Chính phủ Cách mạng lâm thời, Hội đồng Cố vấn Chính phủ, nhiều đại biểu trí thức, nhân sĩ yêu nước và dân chủ, để thảo luận việc sớm thực hiện thống nhất Tổ quốc về mặt Nhà nước. Hội nghị đã hoàn toàn nhất trí về sự cần thiết phải sớm thống nhất Nhà nước và thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội.

[9] Hà Nội Mới, Số 2246, 2/5/1975

[10] “Estoppel, Acquiescence and Recognition in Territorial and Boundary Dispute Settlement”, Nuno Sergio Marques Antunes, 2000, International Boundaries Research Unit, Durham University.

[11] Monique Chemillier-Gendreau, “Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands”: p. 129

[12]

[12] Xem “Legal effects of unilateral declarations”, http://www.iilj.org/courses/documents/AILUnit4oldLegalEffectsUnilateralDeclarations.pdf

[12]

[12]“Guiding Principles applicable to unilateral declarations of States capable of creating legal obligations”, The International Law Commission, http://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/draft%20articles/9_9_2006.pdf

[12]

[13] “A legal analysis in support of Viet Nam’s position regarding the Paracel & Spratly Islands”, Nguyen Thai Linh and Duong Danh Huy, 2012, South China Seas Studies, Học viện Ngoại giao, http://southchinaseastudies.org/en/publications/vietnamese-publications/698-a-legal-analysis-in-support-of-viet-nams-position-regarding-the-paracel-a-spratly-islands

[14] “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, Từ Đặng Minh Thu, 2007, Thời Đại Mới, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm

[15] Case concerning the temple of Preah Vihear (Cambodia v. Thailand). I.C.J. summary 1962:

[15]http://www.icj-cij.org/docket/files/45/4873.pdf

[16] “The creation of States in international law”, Crawford, 2006, Oxford University Press.

[17] “Tính pháp lý của việc thừa kế hai quần đảo”, Phạm Thanh Vân và Dương Danh Huy, 2012, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/07/120707_legal_scs_comment.shtml

[17]

[17]“Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?”, Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh, 2013, BBC, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/04/130411_hoangsa_truongsa_vn_vnch.shtml

[17]

[18] Thí dụ như khi phe nổi loạn ở Zaire lật đổ chế độ Mobutu và đổi tên nước thành Democratic Republic of the Congo thì đó chỉ là sự thay đổi chế độ và thay tên của một quốc gia, không phải là sự thành lập một quốc gia mới, cho nên những vùng lãnh thổ nào là của Zaire mặc nhiên vẫn là của  Democratic Republic of the Congo. Cũng như khi Lol Nol lật đổ Sihanouk và đổi tên nước thành Cộng Hòa Khmer, Khmer Đỏ lật Lol Nol và đổi tên nước thành Campuchia Dân Chủ, thì những vùng lãnh thổ nào là của Campuchia vẫn là của Campuchia.

[19] Tại Hội thảo quốc tế về tranh chấp Biển Đông do Trung tâm châu Á và toàn cầu hóa phối hợp tổ chức với trường ĐH Lý Quang Diệu tháng 3 năm 2013, với sự tham gia của nhiều học giả và quan chức từ Mỹ, Việt Nam, Trung Quốc và Singapore, khi được chất vấn về hành động “thay đổi hiện trạng” của Trung Quốc vào các năm 1974 và 1988, học giả Trung Quốc đã viện dẫn CH PVĐ để chứng minh rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: http://asiasociety.org//video/policy/us-and-china-south-china-sea-complete?utm_source=asiasociety.org&utm_medium=jwplayer&utm_campaign=video (xem từ phút thứ 59)

[19]

[19]Hay: Trong cuốn sách mới xuất bản năm 2013 với tựa đề “Solving Disputes for Regional Cooperation and Development in the South China Sea: A Chinese Perspective”, Wu Shicun, chủ tịch Viện nghiên cứu quốc gia TQ về Biển Đông do chính phủ TQ tài trợ, viết “VNDCCH công khai ủng hộ chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Nguyên văn tiếng Anh: “DRV openly supported China’s sovereignty over the Xisha and Nansha Islands”)

[19]

[20] Stein Tonnesson, “The History of the Dispute,” in Timo Kivimaki (ed.): p. 16

[20]Clarence J. Bouchat, “Dangerous Ground: The Spratly islands and U.S. interests and approaches”, United States Army War College Press (2013): p. 25

[20]Trefor Moss, “History Wars: A Long View of Asia’s Territorial Disputes”, The Diplomat (2013): http://thediplomat.com/2013/09/history-wars-a-long-view-of-asias-territorial-disputes/

http://www.boxitvn.net/bai/23248

Khảo sát biên giới Việt-Trung bằng Google Maps và Google Earth

Phan Văn Song, Phạm Quang Tuấn, Dương Danh Huy

Tóm tắt

Biên giới Việt-Trung là một chủ đề nhiều người Việt quan tâm nhưng ít người có thời giờ hay phương tiện để xem xét cụ thể những địa điểm gây tranh cãi. Để đáp ứng nhu cầu này cũng như để giúp các nhà nghiên cứu có thêm một phương tiện khảo sát các khu vực biên giới, chúng tôi đã vẽ biên giới Việt-Trung hiện nay (theo hiệp định biên giới 1999) song song với một phiên bản cũ trên Google Maps (GM) và Google Earth (GE). Bạn đọc có thể mở trực tiếp hay tải xuống tài liệu này (dạng kmz) từ địa chỉ mạng:

https://drive.google.com/file/d/0B_lidFOs3N1XRmdVQXRMNE1ZVEU/edit?usp=sharing (nhấp chuột trực tiếp để mở GM).

https://www.dropbox.com/s/mdr2870e3vg2gvm/Bi%C3%AAn%20gi%E1%BB%9Bi%20V-T.kmz (509 KB, tải về máy cá nhân rồi nhấp chuột để mở GE)

Bài viết cùng với tài liệu trên bao gồm các nội dung sau:

1. Thể hiện toàn bộ các cột mốc biên giới và đỉểm định vị khác của biên giới ngày nay lên GM và GE. Việc này cho phép những người quan tâm về biên giới Việt Nam – Trung Quốc khảo sát vị trí của từng cột mốc với độ chính xác và mức chi tiết rất cao của GM và GE bằng cách phóng to chỗ quan tâm trên màn hình tới mức cho phép.

2. Thể hiện đường biên giới hiện nay trên GE với sai số nhỏ tới mức có thể được trong khả năng chúng tôi bằng cách nối các cột mốc và đỉểm định vị khác của biên giới (ở điểm 1) lại với nhau (đường màu đỏ) theo như mô tả trong Nghị định thư về phân giới và cắm mốc 2009 và tận dụng những thông tin có được trên GE. Việc này cho phép những người quan tâm về biên giới Việt Nam – Trung Quốc khảo sát biên giới này bằng GM và GE.

3. Đưa ra gợi ý về một số khu vực mà Việt Nam và Trung Quốc có thể đã nhượng bộ nhau, giúp cho người quan tâm về biên giới Việt Nam – Trung Quốc có thể nghiên cứu thêm qua việc so sánh biên giới ngày nay (ở điểm 2) với biên giới do Google vẽ sẵn (chúng tôi cũng đã vẽ lại [đường màu trắng] để dự phòng trường hợp Google cập nhật biên giới). Các khu vực này được liệt kê ở phụ lục 2 và 3.

4. Tìm hiểu thêm về những khu vực trong điểm 3 bằng cách so sánh biên giới do chúng tôi vẽ (trong điểm 2) với biên giới trong bản đồ 1:50 000 của quân đội Mỹ (đường màu vàng/nghệ) và biên giới trong bản đồ của Quân đội Nhân dân Việt Nam (đường màu hường/hường sậm) mà chúng cũng đã đưa lên GE. Vì bản đồ 1:50 000 của quân đội Mỹ đã dựa trên bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương, phép so sánh này đưa ra những gợi ý có thể chính xác hơn về những khu vực mà Việt Nam và Trung Quốc có thể đã nhượng bộ nhau.

5. Tìm hiểu về nguồn gốc của biên giới Việt – Trung vẽ sẵn của GE và qua đó cũng thấy được chỗ còn hạn chế của của bản đồ này. Ở những đoạn có trong bộ bản đồ quân đội Mỹ mà chúng tôi tìm được, biên giới Google trùng hợp hầu như hoàn toàn với biên giới trong bản đồ của quân đội Mỹ. Ở những phần khác, có những đoạn trùng hợp với bản đồ của Quân đội Nhân dân Việt Nam và những đoạn có những khác biệt đáng kể. Chúng tôi chưa rõ Google đã dựa vào tài liệu nào để vẽ những đoạn này.

Phần chính của bài cùng 4 phụ lục sẽ nói rõ hơn về các các nội dung trên cùng với các chi tiết kỹ thuật, kể cả các đường link tới các bản đồ AMS/QĐND cho các bạn đọc nào quan tâm.

Quy ước các ký hiệu sử dụng (trong bản đồ GE)

Ký hiệu

Ý nghĩa

  Biên giới hiện tại
  Biên giới AMS
  Biên giới AMS (những chỗ chỉnh lại theo sông)
  Biên giới QĐND
  Biên giới QĐND (những chỗ chỉnh lại theo sông)
  Biên giới GE 2013
  Cột mốc
  Khu vực bg có vẻ TQ lấn sang VN hoặc có nêu trong “Bị Vong Lục”/tài liệu khác
  Chỗ được xác nhận là có nhân nhượng qua đàm phán phân giới
  Khu vực bg có vẻ VN lấn sang TQ
  Vị trí cột mốc cũ (Pháp – Thanh)
4. Nậm Chảy Tên khu vực bg nêu trong Bị Vong Lục/tài liệu khác
3. ? Khu vực bg có vẻ TQ lấn sang VN theo GE 2013
2. ? Khu vực bg có vẻ VN lấn sang TQ theo GE 2013

1. Giới thiệu chung

Vừa qua chúng tôi đã công bố bộ bản đồ so sánh các cột mốc mới với biên giới Việt – Trung[1] trên bộ bản đồ 1:50 000 của Cục bản đồ quân đội Mỹ (Army Map Service – AMS). Các bản đồ này được làm dựa trên các bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương của Pháp (Societé de Géographie de l’Indochine – SGI). Bộ bản đồ này cho người đọc thấy rõ vị trí các cột mốc mới so với núi đồi, sông suối…, và cho phép người đọc có thể so sánh biên giới mới với biên giới có khả năng là biên giới theo quan điểm của Pháp về Công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895 (Công ước mà hai bên Việt Nam và Trung Quốc thống nhất dùng làm cơ sở cho việc đàm phán biên giới[2]). Tuy nhiên, bộ bản đồ này vẫn còn thiếu một số khu vực của biên giới và cũng hơi bất tiện cho người đọc vì phải tải về máy cá nhân 23 bản đồ (21 đã công bố đường dẫn + 2 sẽ nêu đường dẫn trong bài viết này) có dung lượng khá lớn. Các bản đồ này có ưu điểm là có thể hiện địa hình dưới dạng các đường đẳng cao/ sâu, tuy nhiên cũng khá bất tiện cho người tìm hiểu khi phải lần theo các đường này để hình dung ra biên giới mới từ các cột mốc. Ngoài ra, bản đồ tuy có tỉ lệ khá cao (1:50 000) nhưng vẫn chưa đủ cao để tìm hiểu những khu vực nhỏ.

Hiện nay, Google Maps (GM) và nhất là Google Earth (GE) với các kỹ thuật vệ tinh đã cho phép thể hiện bản đồ các khu vực trên thế giới với độ phân giải cao với đầy đủ địa hình dưới dạng ảnh thật, thậm chí tới từng đường phố, nhà cửa, xe cộ… Vì thế, thể hiện các cột mốc mới trên GE và GM rồi tìm cách dựa vào mô tả trong Nghị định thư về phân giới và cắm mốc biên giới Việt Trung năm 2009 (NĐT)[3] và địa hình thấy được trên bản đồ chúng ta sẽ dễ dàng hình dung chính xác biên giới mới. Hơn nữa, trên GE  và GE cũng có đường biên giới Việt – Trung vẽ sẵn (đường màu vàng trên GE và màu xám sậm trên GM) cho tới lúc này vẫn chưa cập nhật theo Hiệp ước biên giới 1999. Theo đối chiếu của chúng tôi (xem hình 1a , b , c như minh hoạ) ở những chỗ có thể kiểm chứng với bản đồ của AMS, đường biên giới GE/GM hầu như hoàn toàn trùng hợp tọa độ với đường biên giới AMS. Căn cứ vào địa hình, ở một số chỗ các tọa độ trên bản đồ AMS có sai số khoảng 100-200 m, vì vậy biên giới trên GE/GM cũng có sai số tương tự. Đối chiếu biên giới có sẵn và biên giới vẽ thêm, người đọc có thể nhận ra những vị trí có khả năng thay đổi chủ qua Hiệp ước biên giới 1999 theo bản đồ GE/GM. Chúng tôi nhấn mạnh là ‘vị trí có khả năng đổi chủ’ hay nói ví von là ‘vị trí là ứng viên của các khu vực đổi chủ’ vì chúng ta không chắc đường biên giới trên GE và GM có phản ánh quan điểm của hai bên Việt Nam và Trung Quốc về Công ước Pháp – Thanh  hay/và phản ánh đúng thực tế biên giới cũ hay không, ngoài ra còn có thể có những sai sót kỹ thuật chưa phát hiện được.

Hình 1a: Biên giới trên GE (đường vàng – lấy trực tiếp từ màn hình) sai lệch nhỏ so với biên giới AMS ở khu vực Cao Bằng  (chồng bản đồi lấy từ GE lên bản đồ AMS)

Hình 1b: Ở khu vực Bình Liêu (Quảng Ninh), biên giới trên GE (màu xanh – trích ra qua file kml) trùng khá khít khao với biên giới AMS , chỗ AMS để trống do có nguồn mâu thuẫn (chỗ khoanh đỏ trên hình) thì GE nối liền bằng đoạn thẳng

 

Hình 1c: Biên giới GE (màu xanh – trích ra qua file kml) chồng khít khao lên biên giới AMS ở khu vực nhỏ chỗ ải Nam Quan cũ

Lưu ý rằng GM và GE có thể dùng miễn phí và người đọc có thể truy cập dễ dàng, xem xét bất cứ vị trí nào với độ phóng đại cao.[4] Tận dụng các ưu điểm đó của GM và GE, chúng tôi đã sử dụng các thông tin trong NĐT và các bản đồ kèm theo lập ra được bản đồ biên giới Việt – Trung trên GM và GE dưới dạng các file kmz (dạng nén của file kml) mà bạn đọc có thể tải về máy cá nhân để sử dụng.

Bản đồ trên GM có đường dẫn là https://drive.google.com/file/d/0B_lidFOs3N1XRmdVQXRMNE1ZVEU/edit?usp=sharing (file kmz 49KB).

và bản đồ trên GE có đường dẫn là https://drive.google.com/file/d/0B_lidFOs3N1XTnFBVmxmTVRWdm8/edit?usp=sharing (file kmz 509 KB)

Thật ra, cả hai file trên đều có thể mở bằng GM lẫn GE. Nếu nhấp chuột trực tiếp vào đường dẫn thì sẽ mở bản đồ trên GM, còn nếu tải (file kmz) về máy cá nhân thì chỉ mở được bằng GE (cũng bằng cách nhấp chuột vào tên file với điều kiện máy đã có cài đặt Google Earth). Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị người đọc nên mở bản đồ đầu bằng GM, còn bản đồ sau bằng GE vì GM hiện nay chưa cho phép thể hiện hết các tính năng có trong bản đồ sau.

Để tải các file này về máy cá nhân, bạn đọc có thể mở file bằng GM trước, sau đó nhấp chuột vào mục ‘File’ ở thanh menu của GM và chọn ‘Download’, hoặc chỉ đơn giản nhấp chuột vào ký hiệu ‘mũi tên chỉ xuống’ ngay dưới mục ‘File’ (xem hình 3b) thì sẽ tải được file kmz về máy cá nhân.[5]

Riêng file bản đồ GE cũng có thể tải về trực tiếp theo đường dẫn sau: https://www.dropbox.com/s/mdr2870e3vg2gvm/Bi%C3%AAn%20gi%E1%BB%9Bi%20V-T.kmz

2. Mô tả chi tiết

Trên hai bản đồ này đều có các chi tiết sau:

1.          Vị trí các cột mốc (hoặc các điểm định vị khác trên tuyến biên giới): được thể hiện bằng ký hiệu hình bong bóng xanh có chấm tròn đen ở giữa (trên GM) hoặc bằng ký hiệu đinh ghim vàng (trên GE) . Tên cột mốc[6] sẽ hiện ra khi người đọc nhấp chuột vào nó (xem hình 2b và 3b) và còn khi nhấp chuột vào các điểm định vị khác thì sẽ cho thấy sẽ cho thấy dòng chữ ‘điểm định vị khác trên tuyến biên giới’.
2.          Biên giới 1999 (màu đỏ): đây chỉ là mục tạm thời khi GE/GM chưa cập nhật biên giới theo NĐT. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng hết sức trong khả năng cho phép để đảm bảo đường biên giới theo đúng như mô tả trong NĐT, tuy nhiên do một số hạn chế kỹ thuật chưa khắc phục được nên sẽ có một số đoạn của đường biên giới này có thể có sai lệch với đường biên giới đúng. Những chỗ quá ngoằn ngoèo đã bị lược bớt chỉ theo hướng chính của biên giới, một số chỗ chưa theo thật đúng địa hình do ảnh vệ tinh ghép chưa thật chính xác (như trường hợp ở khu vực ải Nam Quan cũ… ) hoặc do ảnh bị mờ/ mây che/ độ phân giải thấp không cho thấy rõ sống núi/ đường phân thuỷ/ hẻm núi /đường mòn/ suối nhỏ phải mò mẫm vẽ theo thông tin có sẵn về độ cao của GE. Riêng các đoạn biên giới dọc theo sông lớn có mức độ chính xác cao hơn, tuy nhiên do hiện nay độ phân giải của ảnh một số khu vực chưa thật cao nên không đảm bảo biên giới là trung tuyến dòng chảy hay nằm đúng chỗ so với các cồn trên sông. Đặc biệt lưu ý rằng đường biên giới mới chúng tôi vẽ trên GM, còn sơ lược hơn nhiều, chỉ đơn giản là  nối các cột mốc liên tiếp lại với nhau theo đường thẳng. Do đó, đối với những khu vực nhỏ, bạn đọc khi dùng GE/GM cần đối chiếu lại với mô tả trong NĐT và bộ bản đồ chính thức kèm theo.[7] Rất tiếc do chất lượng bộ bản đồ đó không tốt, mọi thứ chỉ thấy lờ mở nên đã không giúp chúng tôi được nhiều khi vẽ biên giới mới trên GE/GM.
3.          Vị trí của một số khu vực đáng chú ý:  gồm các khu vực trên bản đồ cho thấy có sự thay đổi về biên giới lớn dễ nhận ra, các địa điểm có nêu trong Bị vong lục 1979 (BVL)[8] (dù trên bản đồ cho thấy có/không có thay đổi) hoặc đơn giản là các vị trí đã được nêu trong các tài liệu chính thức của chính phủ Việt Nam hay đã từng được đề cập trên các diễn đàn. Trên GE các vị trí này được thể hiện bằng ký hiệu ‘bảng chú ý’ hoặc bằng ký hiệu khác có  kèm theo dấu ‘?’(đối với trường hợp có vẻ TQ lấn VN) hoặc có kèm theo tên (trong BVL), và bằng ký hiệu bong bóng màu tía có chấm vuông ở giữa có kèm dấu ‘?’ đối trường hợp có vẻ VN lấn sang TQ. Chi tiết về các địa điểm này sẽ được hiện lên màn hình khi bạn đọc nhấp chuột vào các ký hiệu tương ứng vừa nêu. Tất cả vị trí này được liệt kê chi tiết trong Phụ lục 2 (49 trường hợp biên giới mới lấn về phía VN so với GE) và Phụ lục 3 (31 trường hợp biên giới mới lấn về phía TQ so với GE). Trên GM các ký hiệu có thể khác đi vì GM chưa cho phép thể hiện đầy đủ như GE như đã nêu và chúng tôi chỉ minh hoạ một số trường hợp. Có thể dễ dàng phát hiện vẫn còn một số khu vực khác có thay đổi theo GE/GM với diện tích nhỏ hơn mà chúng tôi chưa liệt kê ra trong 2 phụ lục này. Và cũng xin nhắc lại một lần nữa đó chỉ là những khu vực có thay đổi về biên giới theo bản đồ GE/GM 2003, chứ chưa hẳn có thay đổi thật sự trên thực tế. Những vị trí nào có vẻ không có thay đổi theo bản đồ AMS/QĐND đều có ghi chú trong hai phụ lục này.

Riêng trên GE còn có thêm 2 mục sau:

4.          Biên giới Việt – Trung theo GE tháng 11/2003: mục này chỉ để dự phòng, bạn đọc chỉ phải dùng tới mục này sau khi GE cập nhật biên giới theo đúng NĐT.

5.          Biên giới Việt – Trung theo bản đồ AMS/Quân đội Nhân dân Việt Nam: gồm những đoạn biên giới vẽ theo bản đồ QĐND Việt Nam /QGPND miền Nam in trong những năm 1975-1991… hay theo bản đồ AMS thập niên 1960. Những đoạn biên giới mà hai bản đồ này đều có và trùng khớp được vẽ màu vàng/nghệ, những đoạn nào chỉ có bản đồ của QĐND thì vẽ màu hường/hường sậm và đoạn nào chưa có bản đồ thì chừa trống. Lưu ý rằng ở những chỗ có sai lệch của bản đồ AMS hay QĐND (những chỗ biên giới theo sông suối nhưng không trùng với sông suối thể hiện trên GE) phát hiện được thì chúng tôi có chỉnh lại đúng như địa hình chứ không theo toạ độ trên bản đồ và vẽ với màu sậm (nghệ/hường sậm). Phụ lục 4 sẽ cho thêm các chi tiết và đường dẫn để truy cập các bản đồ này. Ngoài ra, bạn đọc có thể tải về file kmz sau đây rồi mở trên GE để xem từng bản đồ đó ứng với đoạn biên giới nào: https://www.dropbox.com/s/f5d7ov83q3f0lcv/MapList.kmz (3 KB).

3. Một số điều cần lưu ý

Bản đồ trên GM có điểm lợi là người đọc có thể chuyển từ chế độ bản đồ thông thường sang chế độ ảnh vệ tinh bất cứ khi nào mình muốn. Tuy nhiên, có vẻ GM chưa cập nhật các bản đồ dạng thông thường theo các ảnh vệ tinh mới nhất của họ (xem hình 4a và 4b). Còn bản đồ GE cho phép nhìn bất kì khu vực nào theo những góc độ khác nhau, và đối với nhiều khu vực, người đọc có thể truy cập ảnh vệ tinh ở nhiều thời điểm khác nhau (nhấp chuột vào icon có dạng đồng hồ) giúp có cái nhìn phong phú hơn chế độ một ảnh của GM, nhất là trường hợp gặp ảnh mờ hoặc bị mây che. Hơn nữa, GE có hiển thị luôn thang tỉ lệ cho phép người đọc có thể ước đoán về các khoảng cách trên bản đồ[9]. Vì thế bạn đọc chỉ nên dùng bản đồ GM như tài liệu phụ để tham khảo/ đối chiếu thêm, nhất là khi muốn xem xét dưới dạng bản đồ thường hoặc muốn có thêm chi tiết không có trong GE.

Đối với bản đồ GE, chúng tôi làm thành 5 mục riêng biệt: (1) vị trí cột mốc, (2)đường biên giới hiện nay, (3) vị trí các khu vực có khả năng đổi chủ, (4) đường biên giới theo GE năm 2013, (5) đường biên giới AMS/QĐND. Nhờ thế sau khi mở bản đồ ra, người xem có thể loại ra khỏi bản đồ mục mình không quan tâm bằng cách ‘uncheck’ (loại bỏ dấu ‘✓’) ô vuông trước tên mục đó trong phần ‘Places’ trên ‘Sidebar’. Ví dụ như ở hình 2b, mục ‘Biên giới 1999’ đã bị unchecked nên không có đường nối màu đỏ như ở hình khác – tương tự như bạn đọc có thể làm với các chi tiết có sẵn trên bản đồ  ở ‘Layers’ (lớp)  trên ’Sidebar’. Để có thể theo dõi bài viết này, bạn đọc khi mở file kmz của chúng tôi lần đầu nên đảm bảo có các dấu ‘✓’  ở các lớp ‘Borders and Labels’, ‘Roads’ ( và có thể cả ‘Places’) trong phần ‘Layers’.

Nhìn chung GE thể hiện rất chính xác vị trí các cột mốc như dọc theo các ranh giới tự nhiên như sông/suối, sống núi/đường phân thuỷ … (xem hình 2a và 3a), ngay cả đường nhỏ (xem hình 2c). Cả GM lẫn GE đều có một số chỗ không thật chính xác (ví dụ như giao điểm biên giới Việt- Trung- Lào có toạ độ không đúng như nêu trong NĐT hoặc các trường hợp trong hình 3b, hình 4a). Một số ảnh vệ tinh của GE ở các thời điểm khác nhau không trùng khớp (xem hình 4a). Điều này có thể do có hạn chế nào đó trong kỹ thuật  lắp ráp nhiều ảnh vệ tinh của các khu vực khác nhau lại với nhau. Vì thế, đối với từng khu vực cụ thể có quan tâm, bạn đọc cần chú ý dùng các cách khác nhau để kiểm tra mức độ chính xác của GE ở khu vực đó (chẳng hạn như cách chúng tôi làm trong các ví dụ ở các hình bên dưới). Những khu vực khác nhau có thể sẽ có độ chính xác khác nhau vì chúng có thể không nằm trên cùng một ảnh vệ tinh.

Hình 2a: Các cột mốc nằm chính xác hai bên bờ sông, hai bên đầu cầu như mô tả trong NĐT

 Hình 2b: Các cột mốc nằm chính xác trên đỉnh núi/sống núi/đường phân thuỷ/yên ngựa như mô tả trong NĐT

Trong hình này, ‘Sidebar’ được hiển thị nhưng đường biên giới mới (màu đỏ) đã bị loại ra khỏi bản đồ  (do mục ‘Đường BG’ trong phần ‘Places’ ở ‘Sidebar’ không còn dấu ‘✓’)

Hình 2c: GE thể hiện cột mốc chính xác cả bên đường nhỏ dọc biên giới

Hình 3a: Ảnh vệ tinh độ phân giải khá cao của GE cho vi trí cốt mốc chính xác trên sông

Hình 3b: Cùng khu vực như ở hình 3a, nhưng trên GM cột mốc 94(1) không nằm trên bờ sông Hồng phía TQ như mô  tả trong NĐT và không cho thấy cồn Tian Fang Xiao Dao (Thiên Phương) nằm giữa sông ở mốc 95(1) kế phía dưới.

 

Hình 4a: QL 1A và các chi tiết khác trong ảnh màu lệch với ảnh đen trắng (và GM) khoảng 30-40 m theo hướng Đông – Tây và cả theo hướng Bắc – Nam)

Hình 4b: Bản đồ GM chưa cập nhật/thiếu  thông tin so với ảnh vệ tinh của GE

Hình 4c: Cột mốc 1116 có vẻ nằm bên lề phần nối dài về phía biên giới của QL 1A trên ảnh đen trắng như mô tả trong NĐT[10]  (trong khi ảnh màu bên trên và GM cho thấy hình như nó nằm ngay trên lòng đường)

Đối với vị trí các cột mốc, GE cho phép người đọc thấy rõ vị trí của các cột mốc bằng ảnh thật với độ chính xác từ vài mét (nếu nằm trong khu vực có ảnh vệ tinh độ phân giải cao trên GE) tới vài chục mét (nếu nằm trong khu vực có ảnh vệ tinh độ phân giải kém hơn hoặc có vấn đề kỹ thuật).

Đối với biên giới mới (đường đỏ trên GE), GE cho người đọc một cái nhìn rõ ràng cả tổng thể lẫn chi tiết, không lờ mờ như bộ bản đồ kèm theo NĐT, và nói chung phản ánh đúng những gì mà NĐT mô tả ngoại trừ một số nhược điểm kỹ thuật khó khắc phục như chúng tôi đã nêu trên,

Ngoài ra, khi dùng bản đồ GE/GM người đọc có thể tự phát hiện và xem xét tường tận dễ dàng hơn những khu vực biên giới có khả năng có thay đổi như chúng tôi có chỉ ra một số trong phần ‘Vị trí đáng chú ý’ trên bản đồ GE. Tuy nhiên, để xác định các khu vực đó có thay đổi thực sự hay không, người đọc trước hết cần tự kiểm tra coi tại khu vực đó bản đồ GE/GM có bị sai số không (chẳng hạn dùng các cột mốc ở các vị trí đặc biệt như ven sông, trên sống núi, bên đường, hai bên cầu… hay những cách khác như thử đặt một placemark cho một địa điểm mà mình đã biết chắc vị trí và toạ độ…). Kế đó phải phối kiểm với bản đồ AMS (do biên giới GE/GM có sai lệch với biên giới AMS như đã nêu ở trên) vì bản đồ này cũng đã có sẵn, đáng tin cậy và có nhiều khả năng phản ánh đúng Công ước Pháp Thanh (ít ra là theo quan điểm và cách diễn giải của Pháp) so với các bản đồ được biết hiện nay. Tuy nhiên, ở bước này cần lưu ý thêm rằng trên bản đồ AMS cũng có một số khu vực bị sai lệch hoặc có nguồn mâu thuẫn, chẳng hạn như ở khu vựcThác Bản Giốc hay khu vực ải Nam Quan cũ… Ở những khu vực như thế, vì đường biên giới được số hoá đưa lên GE nên các điểm trên biên giới giữ đúng toạ độ [như bản đồ AMS], và do vậy cả đoạn biên giới không phù hợp với địa hình theo ảnh vệ tinh (tức không đúng theo các văn bản pháp lí lẫn thực tế)  Điều này cho thấy việc dùng kết hợp hai bản đồ là vô cùng cần thiết: dùng GE để chỉnh lại địa hình trên AMS và dùng AMS để chỉnh lại đường biên giới trên GE cho đúng theo địa hình (ở những khu vực có sự không trùng khớp như thế này – xem Phụ lục 1).

Ngoài ra, cũng cần lưu ý thêm rằng biên giới trên GM và GE chỉ là do bên thứ ba (trường hợp này là Google) vẽ ra nên không có tính pháp lí. Thật ra, như đã có lưu ý trong các bài trước, ngay cả bản đồ của SGI cũng không có tính pháp lí[11] vì nó chỉ là bản đồ của một bên chứ không phải là bản đồ kèm theo công ước có chữ ký của hai bên. Ngoài các điều trên, muốn đưa ra một kết luận nghiêm túc nào đó người đọc cuối cùng vẫn phải phối kiểm lại với các tài liệu /bản đồ /bằng chứng khác, dĩ nhiên kể cả NĐT và bộ bản đồ kèm theo nó. Việc này, dĩ nhiên nằm ngoài phạm vi bài viết có tính chất giới thiệu này.

Nói tóm lại, hai bản đồ này, nhất là bản đồ GE là công cụ rất mạnh mẽ và tiện dụng. Chúng cho phép người dùng có thể xem xét chi tiết vị trí các cột mốc mới và có một cái nhìn tổng thể về đường biên giới mới nhanh chóng và dễ dàng. Chúng cũng giúp người đọc phát hiện nhanh chóng những đoạn biên giới có khả năng đã bị thay đổi sau Hiện định biên giới 1999. Đó là những là gợi ý tốt giúp những người quan tâm tới biên giới trên bộ định hướng những chỗ cần xem xét, nghiên cứu thêm.  Sau khi đối chiếu với các tài liệu khác xác định ra những đoạn bị định nhầm do sai sót của Google, chúng ta có thể quay trở lại GE/GM dùng các thông tin phong phú trên đó để củng cố thêm các kết luận của mình. Chẳng hạn, chúng ta có thể ước lượng độ dài những đoạn biên giới có thay đổi và diện tích khu vực có thay đổi tương ứng (xem chú thích 9)…

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Sai lệch địa hình của AMS và sai lệch biên giới của GE ở Thác Bản Giốc và ải Nam Quan cũ

1. Ở khu vực Thác Bản Giốc: GE và phần mềm chuyên dụng chúng tôi dùng để vẽ các cột mốc đều cho thấy địa hình ở đây bị lệch về phía Nam khoảng 150 m (xem hình 5), và sai lệch đó đã ảnh hưởng ngược lại GE: đường biên giới trên GE nằm về phía Nam 150 m so với địa hình (do đã vẽ theo đúng toa độ như trên AMS).

Hình 5: Các cột mốc trong 2 bản đồ khu vực Thác Bản Giốc như nhau: điểm A (vàng) trong 2 bản đồ cho thấy biên giới trên GE vẽ theo đúng toạ độ như trên AMS, điểm x (đỏ) trong 2 bản đồ cho thấy các chi tiết địa hình trên bản đồ AMS lệch về phía Nam khoảng 150 m so với bản đồ GE (tức là so với thực tế theo ảnh vệ tinh của GE).

Do đó khi dùng GE để xem xét khu vưc này phải dời đoạn biên giới cũ lên phía Bắc khoảng 150 m mới phù hợp với thực tế địa hình và các văn bản pháp lí. Hoặc ngược lại, khi dùng bản đồ AMS cần phải dời địa hình về phía Nam khoảng 150 m mới đúng với thực tế địa hình.

2. Ở khu vực ải Nam Quan: tình hình còn phức tạp hơn, địa hình trên bản đồ AMS bị vẽ lệch về phía Nam 75 ± 30 m như đã được chỉ ra trong bài “SO SÁNH BIÊN GIỚI MỚI Ở KHU VỰC NAM QUAN VỚI BẢN ĐỒ CỦA QUÂN ĐỘI MỸ”[12] . Thêm vào đó, ảnh vệ tinh của GE ở các thời điểm khác nhau có vẻ đã bị ghép lệch khoảng 30 – 40 m theo hướng Đông – Tây như đã nêu trong phần chính. Vì Google số hoá biên giới trên bản đồ AMS để đưa lên GE nên biên giới trên GE theo đúng toạ độ, do đó biên giới trên GE sẽ nằm về phía Nam so với địa hình thực tế khoảng 85 m (số đo như trên GE) về phía Nam và có thể lệch 30 m về phía Đông (tuỳ theo ảnh – xem hình 6).

Do đó, khi xem xét khu vực này dù dùng bản đồ GE hay bản đồ AMS đều cần phải có những điều chỉnh thích hợp tương tự như đã nêu với trường hợp Thác Bản Giốc.

Hình 6: Đường biên giới trên GE (đường cong màu vàng) lệch về phía Nam khoảng 85 m (so sánh cột mốc 1118 hoặc 2 cột mốc 19 cũ trên 2 bàn đồ. Nếu theo đúng đia hình như thể hiện trên bản đồ AMS thì đường biên giới trên GE  (điểm màu xanh dương ở giữa) sẽ đi qua đỉnh phía Nam (mốc 19 cũ) của ngọn đồi đôi.

Lưu ý rằng dù bản đồ GE và bản đồ AMS theo các phép chiếu khác nhau nhưng ở khu vực nhỏ như trong hai trường hợp trên, sự sai biệt không là đáng kể nên việc so sánh như trên là chấp nhận được.

——————————————————————

Phụ lục 2: Vị trí những khu vực có khả năng TQ lấn VN qua so sánh biên giới mới và biên giới GE

Lưu ý:

* Do bản đồ AMS có chỗ có thể có sai số lên tới 200 m và bản đồ trên Google Earth cũng có sai số 30-50 m (biết được tới lúc này) nên sai số tổng hợp có khả năng lên tới 250 – 300 m. Do đó, nói chung chúng tôi chỉ kê ra những vị trí mà đường biên giới mới và đường biên giới GE (hay AMS) sai lệch trung bình từ 300 m trở lên. Dù vậy, vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn điều gì về các vị trí này vì chúng ta chưa biết đường biên giới AMS có phản ảnh đúng quan điểm 2 bên và/hay phản ánh đúng thực tế trên thực địa hay không.

* Tên các địa điểm trong Phụ lục 2 và 3 dựa theo bản đồ hành chánh trên cổng thông tin điện tử của chính phủ http://gis.chinhphu.vn/vbdmap.aspx?l=4&kv=2507351.16594,629129.91343. Bản đồ trực tuyến này chỉ phân giới tới cấp xã nên tên các bản không đảm bảo thật chính xác.

STT

Địa điểm

Tên trong BVL/nguồn khác

Ghi chú

1 B. Sín Chảy, X. Pa Vệ Sử, H. Mường Tè, T. Lai Châu có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
2 B. Sín Chảy, X. Pa Vệ Sử, H. Mường Tè, T. Lai Châu Cầu Ba Nâm Cúm có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
3 X. Pa Vệ Sử, H. Mường Tè, T. Lai Châu
4 X. Nậm Chảy, H. Mường Khương, T. Lào Cai (mốc 2-3 cũ) Nậm Chảy
5 Tả Lùng Thắng + Da Ziung Zi, X. Pha Long, H. Mường Khương, T. Lào Cai (khu vực chưa có bđ AMS/QĐND)
6 X. Bản Mây, H. Hoàng Su Phì, T. Hà Giang (khu vực chưa có bđ AMS/QĐND)
7 X, Thanh Thuỷ + Thanh Đức, H Vị Xuyên, T. Hà Giang (Điểm cao 1509, TQ gọi là Lão Sơn) (Núi Đất) có xác nhận của CPVN
8 B. Nà La, X. Thanh Thuỷ, H. Vị Xuyên, T. Hà Giang Điểm cao 226
9 B. Pha Hán (?), X. Thanh Thuỷ, H. Vị Xuyên, T. Hà Giang Điểm cao 1200 Wikipedia cho đây là Núi Bạc (Giả Âm Sơn)(?)
10 B. Mã Hoàng Phín, X. Minh Tân, H. Vị Xuyên, T. Hà Giang (mốc 14 cũ) Tả Lũng
11 Chín Chu Lin + Thèn Ván 2 , X. Cao Mã Pờ, H. Quản Bạ, T. Hà Giang (mốc 1-2 cũ) Cao Mã Pờ
12 Phìn Chư Sảng (X. Nghĩa Thuận) + Thào Chu Phìn (X. Bát Đại Sơn), H. Quản Ba, T. Hà Giang khó có kết luận gì từ hướng bg của bđ QĐND/AMS
13 B. Sủng Lảng, X. Thắng Mố, H. Yên Minh, T. Hà Giang
14 B. Lũng Hoà A, X. Xà Phìn, H. Đồng Văn, T. Hà Giang
15 Tống Quán Chải, X. Thượng Phùng, H. Mèo Vạc, T. Hà Giang
16 B. Lũng Mán, X. Đức Hạnh, H. Bảo Lâm, T. Cao Bằng (mốc 136-137 cũ) Trà Mần
17 B. Nà Luông, X. Cốc Pàng, H. Bảo Lạc, T. Cao Bằng
18 B. Ngàm Giảng, X. Thượng Hà, H. Bảo Lạc, T. Cao Bằng
19 B. Lũng Giảng, X. Cô Ba, H. Bảo Lạc, T. Cao Bằng
20 B. Kả Lò, X. Khánh Xuân, H. Bảo Lạc T. Cao Bằng
21 Sóc Giang, X. Sóc Hà,H. Hà Quảng, T. Cao Bằng (mốc 114 cũ) [Đối diện] Bình Mãng (TQ)
22 B. Nả Rải, X. Trường Hà, H. Hà Quảng. T. Cao Bằng
23 B. Cô Mười, X. Vân An, H. Hà Quảng., T. Cao Bằng
24 B. Pác Có, X. Tổng Cọt, H. Hà Quảng, T. Cao Bằng
25 B. Nà Đoỏng + Na Xi, tt. Hùng Quốc, H. Trà Lĩnh, T. Cao Bằng (mốc 94-95 cũ) Phia Un
26 B. Lũng Lầu, X. Ngọc Khê, H. Trùng Khánh, T. Cao Bằng Trà Lĩnh (mốc 64 cũ)  có vẻ VN lấn sang TQ
27 B. Nà Đeng, X. Đàm Thuỷ, H. Trùng Khánh, T. Cao Bằng
28 X. Đàm Thuỷ, H. Trùng Khánh, T. Cao Bằng Thác Bản Giốc
29 B. Lũng Nậm, X Đồng Loan, H. Hạ Lang, T. Cao Bằng
30 B. Kiểng, X. Quang Long, H. Hạ Lang, T. Cao Bằng
31 B. Khau Khoỏng, X. Việt Chu, H. Hạ Lang, T. Cao Bằng
32 B. Thẩm Cương, X. Thị Hoa, H. Hạ Lang, T. Cao Bằng (mốc 29-31 cũ) Nà Pảng
33 B. Nà Thắm, X. Mỹ Hưng, H. Phục Hoà, T. Cao Bằng
34 B. Nà Nưa, X. Quốc Khánh, H. Tràng Định, T. Lạng Sơn (mốc 17-19 cũ) Khẳm Khau có vẻ VN lấn sang TQ
35 B. Nặm Chà, X. Quốc Khánh, H. Tràng Định, T. Lạng Sơn
36 B. Cọ, X. Tân Minh, H. Tràng Định, T. Lạng Sơn
37 Thàm Coỏng, X. Tân Minh, H. Tràng Định, T. Lạng Sơn
38 Long Diêu (Lung-yao), tt. Đồng Đăng, H. Cao Lộc, T. Lạng Sơn
39 Cửa khẩu Hữu Nghi, T. Lạng Sơn (mốc 18, 19 cũ) Hữu Nghị quan
40 X. Bảo Lâm, H. Cao Lộc, T. Lạng Sơn
41 X. Thanh Loà, H. Cao Lộc T. Lạng Sơn (mốc 25-27 cũ) Thanh Loà có vẻ không có thay đổi
42 B. Pi Ang, X. Xuất Lễ, H. Cao Lộc, T. Lạng Sơn hướng bg trên bđ AMS/QĐND cho thấy có nhiều khả năng có thay đổi
43 X.Mẫu Sơn, H. Cao Lộc, T. Lạng Sơn Kùm Mu
44 Chi Ma, X. Yên Khoái, H. Lộc Bình , T. Lạng Sơn [Đối diện] thị trấn Ái Điểm (TQ)
45 giáp xã Hoành Mô, H. Bình Liêu, T. Quảng Ninh Trình Tường
46 X. Hoành Mô, H. Bình Liêu, T. Quảng Ninh Cầu Hoành Mô có vẻ không  có thay đổi
47 Pò Hèn, X. hải Sơn, H. Móng Cái, T. Quảng Ninh Cầu Pò Hèn có vẻ không có thay đổi
48 P. Hải Hoà, Tp. Móng Cái, T. Quảng Ninh

(VN: 3/4, TQ: 1/4)(Bãi Tục Lãm)có xác nhận của CPVN49P. Hải Hoà, Tp. Móng Cái, T. Quảng Ninh

(VN: 1/3, TQ: 2/3)(Bãi Dậu Gót)nt

– Trong 49 vị trí này có 5 vị trí có khả năng không có thay đổi, 1 vị trí khó kết luận nếu so với bản đồ QĐND.

– Trong các vị trí nêu trong BVL có 2 vị trí (Khẩm Khao, Trà Lĩnh)  lại có vẻ thay đổi theo hướng ngược lại (tức là VN lấn sang TQ).

———————————————————-

Phụ lục 3: Vị trí những khu vực có vẻ VN lấn TQ qua so sánh biên giới mới và biên giới GE

STT

Địa điểm

Ghi chú

1 B. Nậm Tấn Mông, X. Pa Tần, H. Sìn Hồ, T. Lai Châu có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
2 Phỉn Cù, X. Mường Khương, H. Mường Khương, T. Lào Cai có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
3 X. Tung Chung Phố, H Mường Khương, T. Lào Cai  có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
4 X Tả Ngải Chồ + Pha Long, H. Mường Khương, T. Lào Cai có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
5 B. Thảo Chứ Ván, X. Pà Vầy Sủ, H. Xín Mần , T. Lào Cai
6 X. Chí Cà + Nàn Xỉn, H. Xín Mần T. Hà Giang có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
7 B, Mả Tẻn, X. Bản Mây, H. Hoàng Su Phì, T. Hà Giang
8 B. Giáp Trung, X. Thàng Tín, H. Hoàng Su Phì, T. Hà Giang (khu vực chưa có bđ AMS/QĐND nhưng hướng bg QĐND cho thấy có vẻ không thay đổi)
9 X. Lao Chải, H. Vị Xuyên, T. Hà Giang  nt
10 B. Nậm Nịch, X. Thanh Đức, H. Vị Xuyên, T. Hà Giang
11 Pao Mã Phì, X. Tả Ván, H Quản Bạ, T. Hà Giang
12 Hoa Si Pan, X. Tả Ván, H. Quản Bạ, T. Hà Giang
13 Xã Tùng Vài, H. Quản Bạ. T. Hà Giang  có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
14 Chín Chu Lìn, X. Cao Mã Pờ, H. Quảng Bạ, . Hà Giang có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
15 Chín San, X. Cao Mã Pờ, H. Quản Bạ. T. Hà Giang có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
16 B. Cốc Lá, X. Na Khê, H. Yên Minh, T. Hà Giang
17 X. Thắng Mố, H. Yên Minh, T. Hà Giang
18 B. Sủng Là Trên, TT. Phó Bảng, H. Đồng Văn, T. Hà Giang
19 Khai Hoang 2, X. Thượng Phùng, H. Mèo Vạc, T. Hà Giang
20 Mỏ Phàng, X. Thượng Phùng, H. Mèo Vạc, T. Hà Giang có vẻ không thay đổi theo bđ QĐND
21 Lủng Chỉn, X. Sơn Vĩ, H.Mèo Vạc, T. Hà Giang
22 B. Cốc Thốc, X. Thượng Hà, H. Bảo Lạc, T. Cao Bằng
23 B. Lũng Pú, X. Xuân Trường, H. Bảo Lạc, T. Cao Bằng  (dt khá lớn)
24 B. Thiêng Hoài, X. Lũng Nặm, H. Hà Quảng. T. Cao Bằng
25 B. Kéo Quyển, X. Lũng Nặm, H. Hà Quảng. T. Cao Bằng
26 B. Nặm Niệc, X. Cải Viên, H. Hà Quảng, T. Cao Bằng
27 X. Đình Phong, H. Trùng Khánh, T. Cao Bằng
28 B. Lũng Phiếc, X. Đàm Thuỷ, H. Trùng Khánh, T. Cao Bằng
29 B. Pò, X. Đức Long, H. Thạch An, T. Cao Bằng
30 B. Khơ Đa, X. Tân Mĩ, H. Văn Lãng, T. Lạng Sơn chỗ đánh đổi với Cao Mã Pờ?
31 X. Quảng Đức, H. Hải Hà, T. Quảng Ninh

 

Trong 31 vị trí này có 11 vị trí có khả năng không có thay đổi  nếu so với bản đồ QĐND). Như vậy so với bản đồ QĐND có khả năng có 20 vị trí VN lấn sang TQ và nếu kết hợp với PL2 có thể có tổng cộng 22 vị trí VN lấn sang TQ.

———————————————————

Phụ lục 4: DANH SÁCH BẢN ĐỒ AMS và QĐND

– Có 23 bản đồ AMS tỉ lệ 1 : 50 000 cho các khu vực biên giới đánh số từ 1 tới 23 trong bản đồ bên dưới. Các bản đồ này có thể tải về được từ Bộ Sưu tập bản đồ AMS của trường Đại học Texas (University of Texas – UTexas) ở trang http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ (cho bản đồ 1-23) và ở tranghttp://www.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/(cho bản đồ 24).

– Có 21 bản đồ QĐND tỉ lệ 1 : 50 000 cho các khu vực biên giới đánh dấu bằng các chữ cái từ A đến U trong bản đồ bên dưới. Các bản đồ này có thể dùng ‘số hiệu của bản đồ (map number)’ trong bảng mô tả bên dưới để truy tìm và tải về máy cá nhân từ Bộ sưu tập bản đồ của Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech University – TTU) ở trang http://www.virtualarchive.vietnam.ttu.edu/starweb/virtual/maps/servlet.starweb. Thật ra Bộ sưu tập này cũng có cả 23 bản đồ AMS có trong Bộ sưu tập của UTxas nhưng do Quân đội nhân dân Việt Nam/ Quân Giải phóng miền Nam in lại theo cách sao y hoặc vẽ dựa theo (dù có nêu rõ điều này trên bản đồ hay không) và có chỉnh lí theo các bản đồ tỉ lệ 1:100 000 in trong thập niên 1970.

 

(Các khung đỏ chỉ những khu vực biên giới mà các bộ sưu tập chưa có bản đồ)

Nguồn

Vĩ độ

Kinh độ

Tên (số hiệu) bản đồ

23

AMS+

22°15’-22°30’

102°00’-102°15’

Tao Phya (5453-4)

22

AMS

22°15’-22°30’

102°15’-102°30’

Giàng Mưng Pho (5453-1)

21

AMS+

22°30’-22°45’

102°15’-102°30’

Bản Mé Rắng(5454-2)

T

QĐND

22°40’-22°50’

102°15’-102°30’

Phu Tu Lủm (5454-1)

S

QĐND

22°40’-22°50’

102°30’-102°45’

Phu  Nằm Sau (5554-4)

20

AMS

22°30’-22°45’

102°30’-102°45’

Bản Là Sin (5553-3)

R

QĐND

22°30’-22°40’

102°45’-103°00’

Phu Sì Lùng(5554-2)

19

AMS

22°15’-22°30’

102°45’-103°00’

Mường Boum (5553-1)

18

AMS

22°15’-22°30’

103°00’-103°15’

Tà Phìng (5653-4)

Q

QĐND

22°30’-22°40’

103°00’-103°15’

Bản Nặm Cúm (5654-3)

17

AMS+

22°30’-22°45’

103°15’-103°30’

Phong Thổ (5654-2)

P

QĐND

22°40’-22°50’

103°15’-103°30’

Giào San (5654-1)

16

AMS

22°30’-22°45’

103°30’-103°45’

Mường Hum (5754-3)

O

QĐND*

22°40’-22°50’

103°30’-103°45’

Bản Mác (5754-4)

X6

(thiếu)

22°40’-22°50’

103°45’-104°00’

(bg theo sông Hồng)

N

QĐND*

22°30-22°40’

103°45’-104°00’

Lào Kay (5754-2)

15

AMS+

22°30’-22°45’

104°00’-104°15’

Ngai Fong Tion (Bản Phiệt ở bộ bđ QĐND) (5854-3)

M

QĐND

22°40’-22°50’

104°00’

Mường Khương (5854-4)

X5

(thiếu)

22°50’-23°00’

104°15’-104°30’

14

AMS+

22°30’-22°45’

104°15’-104°30’

Pa Kha (Bắc Hà -QĐND) (5854-2)

L

QĐND

22°40’-22°50’

104°15’-104°30’

Bản Po (5854-1)

K

QĐND

22°40’-22°50’

104°30’-104°45’

Hoàng Su Phì (5954-4)

X4

(thiếu)

22°50’-23°00’

104°30’-104°45’

 

13

AMS

22°45’-23°00’

104°45’-105°00’

Hà Giang (5954-1)

J

QĐND

23°00’-23°15’

104°45’-105°00’

Quản Bạ (5955-2)

12

AMS

23°00’-23°15’

105°00’-105°15’

Na Lay (6055-3)

I

QĐND*

23°10-23°20’

105°00’-105°15’

Phó Bảng (6055-4)

11

AMS+

23°00’-23°15’

105°15’-105°30’

Na Kung (Mèo Vạc-QĐND) (6055-2)

H

QĐND*

23°15’-23°30’

105°15’-105°30’

Đồng Văn (6055-1)

X3

(thiếu)

23°10’-23°20’

105°30’-105°45’

G

QĐND*

23°00’-23°10’

105°30’-105°45’

Loung Mang (6155-3)

F

QĐND*

23°00’-23°10’

105°45’-106°00’

Lung Cung (6155-2)

10

AMS+

22°45’-23°00’

105°45’-106°00’

Nam Quét (6154-1)

9

AMS

22°45’-23°00’

106°00’-106°15’

Sóc Giang (6254-4)

8

AMS+

22°45’-23°00’

106°15’-106°30’

Trà Lĩnh (6254-1)

7

AMS

22°45’-23°00’

106°30’-106°45’

Trùng Khánh Phủ (Trùng Khánh – QĐND) (6354-4)

E

QĐND

22°45’-23°00’

106°45’-107°00’

Bản Không (6354-1)

D

QĐND

22°30’-22°45’

106°45’-107°00’

Bản Kiểng (6354-2)

6

AMS

22°30’-22°45’

106°30’-106°45’

Phục Hoà (6354-3)

C

QĐND

22°15’-22°30’

106°30’-106°45’

Tà Lùng (6353-4)

5

AMS

22°00’-22°15’

106°30’-106°45’

Na Chầm (6353-3)

4

AMS+

21°45’-22°00’

106°30’-106°45’

Đồng Đăng (6352-4)

X2

(thiếu)

22°00’-22°15’

106°45’-107°00’

3

AMS

21°45’-22°00’

106°45’-107°00’

Lạng Sơn (6352-1)

B

QĐND

21°45’-

21°59’59.7″

107°00’01.2″-

107°15’01.3″

Chi Ma (6452-4)

2

AMS+

21°30’-21°45’

107°00’-107°15’

Đình Lập (6452-3)

1

AMS

21°30’-21°45’

107°15’-107°30’

Bình Liêu (6452-2)

X1

(thiếu)

21°30’-21°45’

107°30’-107°45’

(có thể là bđ 6552 3)

A

QĐND*

21°30’-21°40’

107°45’-107°59’56″

Móng Cái (6552-2)

I

QĐND

21°30’-21°40’

108°00’-108°15’

Chiang Ping Hsu (6652-3)

 

GHI CHÚ:

– QĐND*: bản đồ của Cục bản đồ Bộ Tham Mưu QĐND VN hoặc Nha Địa dư QGP ND miền Nam in lại có ghi rõ theo nguồn bản đồ Mỹ.

– AMS+: có bản đồ QĐND tương ứng (trong Bộ sưu tập của TTU) và những bản đồ QĐND này hoặc sao y hoăc dựa theo bản đồ AMS và có ghi rõ nguồn là bản đồ Mỹ.

– Số trong ngoặc ở cột tên bản đồ là ‘số hiệu của bản đồ (map number)’ trong Bộ sưu tập, ví dụ bản đồ Bình Liêu có số hiệu là 6452-2. Dùng số hiệu này hoặc tên (không dấu) của bản đồ để truy tìm bản đồ tương ứng rất dễ dàng từ trang web đã nêu của TTU.

– Thật ra cũng còn 3 đoạn biên giới có chiều dài từ khoảng 300 m đến 3 km (đánh dấu bằng chữ x đỏ trong hình trên) không nằm trong phạm vi bao phủ của các bản đồ AMS/QĐND nêu trên.

Như đã giới thiệu trong phần chính, bạn đọc có thể xem vị trí tất cả các bản đồ ứng với đoạn biên giới nào trên GE bằng cách mở file kmz sau đây (sau khi đã tải về máy cá nhân):

https://www.dropbox.com/s/f5d7ov83q3f0lcv/MapList.kmz (3 KB). Nhấp chuột vào mỗi ô sẽ hiện ra tên và số hiệu bản đồ cho ô đó.

P.V.S. – P.Q.T. – D.D.H.

Các tác giả gửi trực tiếp cho BVN


[3] Cụ thể hoá Hiệp ước phân giới năm 1999, xem Công báo từ số 634+635 (http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-36_2010_SL-LPQT-(5924)?cbid=6117) tới số 640+641 (http://congbao.chinhphu.vn/noi-dung-van-ban-so-36_2010_SL-LPQT-(5924)?cbid=5937)

[3]

[4] Google Maps có sẵn trên mạng, còn Google Earth thì cần cài đặt vào máy tính cá nhân. Có thể tải GE xuống theo đường dẫn sau: http://www.google.com/earth/download/ge/agree.html, và việc cài đặt rất đơn giản.

[5] Chúng tôi cho rằng đây là cách tải file kmz về máy cá nhân an toàn nhất vì Google là một công ti lớn có uy tín.

[6] Cột mốc đầu tiên ở giao điểm biên giới Việt – Trug – Lào không ghi số, chúng tôi tạm gọi là “cột mốc 0”

[8] Xem “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” ( Bị vong lục của Bộ ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt Nam ở vùng biên giới), nxb Sự Thật, 1979

[9] Thật ra, GE cho phép ta có thể biết chính xác khoảng cách giữa hai điểm (theo đường thằng hoặc đường bất kì) bằng cách dùng công cụ “Ruler” (trong “Tools”)  hoặc công cụ “Add Path” (trong “Add”) để vẽ một Path (đường) nối hai điểm đó. Sau đó, mở ‘Properties’ của Path này thì sẽ thấy số đo trong mục ‘Measurements’ theo đơn vị tuỳ chọn. Từ đó, ta có thể ước lượng diện tích của một khu vực bằng cách xấp xỉ  nó bằng một đa giác hay cách thích hợp nào đó. Thật ra, GE Pro (dùng phải trả tiền) cho phép tính được diện tích nhưng có lẽ không cần thiết với đa số chúng ta.

[10] Ngoài ra, hầu hết các cột mốc khác đều nằm khá đúng như mô tả trong NĐT. Do đó, có nhiều khả năng ở khu vực này ảnh màu bị ghép lệch hơn là các toán đo đạc phân giới đo/ghi sai hoặc lỗi sao chép của những người soạn văn bản.

[11] Và hơn nữa cũng có những chỗ không phù hợp với các biên bản kèm theo công ước Pháp – Thanh, ví dụ cột mốc 18 cũ gần cổng ải Nam Quan ở bên lề đường theo biên bản nhưng trên bản đồ lại nằm lưng chừng trên sườn đồi….